'Hà Nội bảo thế là thường': lớp nghĩa mới cho những điều xưa cũ

Khi một nhà văn đã thành danh với đề tài nào, họ thường bị đặt trong những đối sánh với các tác giả cùng chung cảm hứng hoặc ít nhất, trong nỗi kỳ vọng về một sự bứt phá, mới mẻ, khác biệt hơn so với chính mình trước đó. Trường hợp Nguyễn Trương Quý, người đã từng viết dăm sáu cuốn tản văn, khảo cứu văn hóa và đời sống thị dân Hà Nội, sự kỳ vọng có lẽ còn chạm ngưỡng áp lực khi anh vẫn kiên định đề tài tưởng như đã cạn kiệt góc nhìn và sự kiến giải ấy.

Hà Nội bảo thế là thường, cuốn sách mới nhất đang gây chú ý văn đàn của anh, có thể nói, khiến độc giả thầm cảm phục vì khả năng vượt thoát các lối mòn cảm xúc để trở nên thanh thoát, tinh tế và đầy ẩn ý trong cách tiếp cận. Hóa ra Nguyễn Trương Quý chưa hề cũ và độc giả của anh thì vỡ lẽ sự đọc của mình lại mới thêm lần nữa.

Nghĩa lý của thường ngày

Sinh hoạt thường ngày của thị dân Hà Nội, bao gồm ăn uống, ăn mặc, ăn ở, các hành vi và thói quen giao tiếp, ứng xử..., có thể xem là những biểu hiện dễ quan sát nhưng khó cắt nghĩa tường tận.

Trong Hà Nội bảo thế là thường, mặc dù tiếp tục quan sát các câu chuyện xoay quanh thức ăn đồ uống, quần áo giày dép, nhưng Nguyễn Trương Quý dừng lại lâu hơn ở nghĩa lý bên trong của vấn đề. Có thể viết về mẻ chua, về thịt ba chỉ, thịt đông, thịt ốc, có thể viết về quần tây, va-li, thắt lưng, mũ phớt, nước hoa, mảnh vườn... nhưng đó đều chưa phải là đích ngắm duy nhất.

Nguyễn Trương Quý không làm trầm trọng hóa những gì biến mất và còn sót lại, cũng không bỏ qua và bỏ quên những thứ có vẻ nhỏ bé, bình thường. Ảnh CTV

Nguyễn Trương Quý không làm trầm trọng hóa những gì biến mất và còn sót lại, cũng không bỏ qua và bỏ quên những thứ có vẻ nhỏ bé, bình thường. Ảnh CTV

Những điều tác giả muốn tìm hiểu, trái lại, nằm ở chuỗi lý do, nguyên cớ mà chúng xuất hiện, tồn tại để rồi trở nên Hà Nội hóa trong những điều kiện khác nhau của lịch sử xã hội. Một thức phẩm khiêm nhường là mẻ chua khiến tác giả phát hiện ra “sự eo hẹp của hoàn cảnh lại làm nên cái tinh túy của đời sống”; một nơi chốn quen thuộc là quán nước chè đã làm tác giả chú ý đến thực tế “chúng đã kịp được không gian hóa thành nơi tự tình trong một vài ca khúc lãng mạn thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp”; một điệu khiêu vũ dặt dìu nhập khẩu từ trời Tây cho phép tác giả nhận định “nó vượt qua phạm vi một sản phẩm của quá trình thuộc địa để trở thành phương tiện hữu tình của tao nhân mặc khách ở một nước Việt nóng lòng hiện đại hóa”; một bữa cơm nhiều món mà người Việt cố gắng bày biện có thể là “một ý niệm thẩm mỹ có tính bố cục”; những mùi cốm, mùi bưởi, mùi hoa sữa, hoa ngâu trải khắp bốn mùa thì “làm cho phố phường Hà Nội có cá tính hơn hẳn. Chúng làm người ta quên đi một chút những nhọc nhằn, phiền muộn thường nhật”... Tất cả nghĩa lý ẩn tàng đằng sau sinh hoạt, khung cảnh thường ngày của Hà Nội đó, thật ra, đều góp phần định hình một tri nhận chung về văn hóa, tính cách Hà Nội.

Nguyễn Trương Quý cũng tìm đến các ngõ ngách thị hiếu thẩm mỹ lẫn tâm lý chuộng mới của thị dân Hà Nội để không phải biện minh mà đồng cảm với cái gọi là “lãng mạn” phảng phất khắp chốn, khắp thời. Lãng mạn có thể vì học đòi, a dua nhưng phần nhiều cũng vì thói quen kháng cự lại sự dễ dãi, tầm thường, xoàng xĩnh. Việc Hà Nội định hình trong cỗi gốc văn hóa Nho giáo rồi được bồi thêm một lớp sơn văn hóa Pháp đã tạo đà cho thị dân nơi đây biết nhạy cảm hơn trước các lớp sóng hưng phế giá trị, nhưng không đến mức quá bảo thủ niềm tin, quan niệm. Bởi vậy, dầu cuốn sách có lần ngược về quá vãng để đối sánh được mất với hôm nay thì nhìn chung, tác giả không có chủ ý biến cái đã qua thành cái đang là.

Nhìn thấy các khu đô thị mới cũng xây cổng chào kiểu khải hoàn môn có tượng ngựa tượng thần trên đỉnh thì không có nghĩa phải chờ đợi, kỳ vọng Hà Nội thật sự là Berlin để làm được Brandenburg danh tiếng. Cũng như đặc tính văn hóa Việt ưa tân chế và “phiên phiến” cho mọi thứ mình tiếp nhận, giới tinh hoa Hà thành cũng tạm chấp nhận một câu cửa miệng mang hàm ý bằng lòng, như tác giả chỉ ra, là “được” cho mọi nỗ lực tìm kiếm, xây dựng sự toàn bích. Vậy thì, Hà Nội bảo thế là thường, có chăng, khích lệ tiếng cười nhẹ nhõm và thông thái trước khi ngã ngũ thừa nhận tính chất sớm nở tối tàn của các dấu chỉ đời sống đô thị mà Hà Nội chỉ là ví dụ điển hình?

Đó là lý do vì sao, thật may, Nguyễn Trương Quý không làm trầm trọng hóa những gì biến mất và còn sót lại, cũng không bỏ qua và bỏ quên những thứ có vẻ nhỏ bé, bình thường. Chính khi diễn giải về chúng, các biến thiên lịch sử, chính trị - xã hội và văn hóa mới bắt đầu hiện rõ. Và vì thế, Hà Nội của Nguyễn Trương Quý chỉ thật sự riêng khác khi anh cấp thêm những lớp nghĩa mới, nhất là lớp nghĩa mang tính cách văn hóa thị dân.

Hà Nội như một văn bản văn hóa

Một số độc giả không ngần ngại gọi Nguyễn Trương Quý là “nhà Hà Nội học” có lẽ một phần vì thao tác, hàm lượng khảo cứu trong cách viết của anh. Rõ ràng, Hà Nội không phải là một tập hợp những biểu tượng dễ thấy. Đôi khi, chúng lẩn khuất trong sự biến đổi hoặc biến mất đến mức rất khó nhận diện, phục dựng và thông hiểu cặn kẽ.

Những cố gắng nắm bắt, phô bày hay xác thực nét đặc trưng Hà Nội, xét cho cùng, đều tùy thuộc vào từng cá nhân, đặc biệt tùy thuộc những tích lũy sống trải văn hóa. Người ta có thể viết về Hà Nội theo nhiều cách và vốn liếng khác nhau nhưng nhất định phải có độ sâu dày văn hóa, thứ giúp họ vừa giải mã được biểu hiện bề ngoài của các thành tố vật chất, tinh thần Hà Nội, vừa có khả năng cấp nghĩa, tạo nghĩa cho chúng và cho cả văn bản văn chương vốn dĩ cần để ngỏ các cơ hội diễn giải.

Câu chuyện Hà Nội là thế nào, vì thế, không còn thực sự quyết định mà Hà Nội được bồi lắng thêm những lớp nghĩa gì theo biến thiên thời cuộc mới đáng chú ý hơn. Chính bản thân Nguyễn Trương Quý, kể từ Một thời Hà Nội hát (2018), cũng đã không còn quá bận tâm vào viết cái gì hay phải cung cấp thông tin, tri thức về đối tượng tìm biết ra sao, mà theo tôi, đã hướng đến trọng tâm cắt nghĩa, phân tích các thiết chế tạo dựng nên sự bền vững và sức hấp dẫn của một đô thị đa tầng lớp văn hóa, lịch sử như Hà Nội.

Các thiết chế đó có thể là huyền thoại nghệ sĩ, các không gian văn hóa, mà cũng có thể là những món ăn, trang phục, âm nhạc, và phức tạp hơn là các trạng thái tinh thần của đời sống thế tục. Giữa hiện hữu và mờ nhòe, giữa cố định và biến đổi của thiết chế, Nguyễn Trương Quý lựa chọn tâm thế tham dự theo lời mời gọi của tư liệu sách báo, hình ảnh, và từ ký ức của cá nhân anh, thế hệ sau muộn thế kỉ XX nhưng kịp chứng kiến các trào lưu thất thường bậc nhất trong tái nhận thức về quá khứ.

So với các cuốn tản văn trước đây chủ yếu bắt mạch đời sống hiện tại, Hà Nội bảo thế là thường lùi sâu hơn về thời đoạn người Pháp có mặt và ít nhiều tạo nên một Hà Nội đúng nghĩa đô thị. Nhiều dẫn chứng, nhiều cứ liệu, tuy chưa phải đắt giá và được phân tích kỹ càng, nhưng cho thấy tác giả rất biết cách làm cho chúng sống động, liên đới và hòa mạch với hôm nay. Những ký ức, hồi cố có phần tiếc nuối, rốt cuộc, đã làm cuốn sách trầm lắng ưu tư, trăn trở hơn.

Quả thật, nếu lần theo cách diễn giải nhẩn nha của Nguyễn Trương Quý, độc giả sẽ được dịp phiêu lưu vào những mạng nghĩa mà một thực thể hay tập tục, hành vi văn hóa có thể hàm chứa. Nếu chúng ta đồng ý với quan niệm của học giả Clifford Geertz (1926-2006) rằng, văn hóa, thực chất, là “một tập hợp các văn bản khác nhau” thì Hà Nội trong góc nhìn của Nguyễn Trương Quý cũng là kiểu văn bản đầy ắp biểu tượng, huyền thoại, ký hiệu. Như ăn món ốc mà tác giả còn thấy biên giới văn hóa, ngôn ngữ ẩn tàng trong đó thì những xử sự lớn lao hơn chắc chắn đều chằng chịt, đan dệt đủ loại câu chuyện khác nhau. Đến như những cành hoa tim tím violet của 60 năm trước mà tác giả còn liên tưởng với bản sắc, ý niệm Tết Hà Nội thì trong mỗi một “hành vi văn hóa thường ngày” chắc chắn đều có thể tạo thành lịch sử nhỏ (vi lịch sử) đủ phức tạp khôn lường.

Điều lý thú là, thay vì chắc mẩm hoàn toàn, Nguyễn Trương Quý đã chừa ít nhiều khoảng trống hoài nghi, chất vấn mức độ sự thật của các tín niệm ấy. Anh thường gọi chúng là “huyền thoại”, “tưởng tượng”, nghĩa là, như các sử gia đã lường trước, không nên quá tay “sáng chế truyền thống” một khi truyền thống luôn được phủ đầy thêm nhiều lớp sương hư thực đan xen.

Nguyễn Trương Quý sinh năm 1977, sống ở Hà Nội, từng được trao tặng Giải thưởng Bùi Xuân Phái - Vì tình yêu Hà Nội năm 2019 cho tác phẩm du khảo Một thời Hà Nội hát - Tim cũng không ngờ làm nên lời ca.

Một số sách tản văn, khảo cứu khác của Nguyễn Trương Quý đã xuất bản: Tự nhiên như người Hà Nội, Ăn phở rất khó thấy ngon, Hà Nội là Hà Nội, Xe máy tiếu ngạo, Còn ai hát về Hà Nội, Mỗi góc phố một người đang sống, tập truyện ngắn Dưới cột đèn rót một ấm trà

Mai Anh Tuấn

Nguồn Người Đô Thị: http://nguoidothi.net.vn/ha-noi-bao-the-la-thuong-lop-nghia-moi-cho-nhung-dieu-xua-cu-26021.html