Nguồn lực đầu tư 10 năm không đổi, mô hình nào để ĐBSCL đi lên?

Thiếu đột phá thu hút nguồn lực đầu tư khiến vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ngày càng kém phát triển hơn so với một số khu vực còn lại của cả nước. Vậy, vùng này cần phải làm gì để thay đổi tình thế?

Vốn ngân sách cho ĐBSCL tăng trong những năm gần đây, nhất là phục vụ phát triển các dự án hạ tầng giao thông, tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội của vùng vẫn không đổi trong 10 năm qua, chiếm khoảng 11% so với cả nước. Ảnh: Trung Chánh

Vốn ngân sách cho ĐBSCL tăng trong những năm gần đây, nhất là phục vụ phát triển các dự án hạ tầng giao thông, tuy nhiên, tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội của vùng vẫn không đổi trong 10 năm qua, chiếm khoảng 11% so với cả nước. Ảnh: Trung Chánh

Cấu trúc nguồn lực đầu tư phát triển gồm có ba nguồn vốn chính, đó là vốn ngân sách Trung ương và địa phương; vốn tư nhân và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Vậy, thu hút ba nguồn vốn này vào ĐBSCL thời gian qua như thế nào?

Thu hút nguồn lực đầu tư 10 năm không đổi

Tại tọa đàm “Thực trạng đầu tư và giải pháp thu hút vốn phát triển cho ĐBSCL” diễn ra ở thành phố Cần Thơ mới đây, ông Nguyễn Phương Lam, Giám đốc Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam chi nhánh ĐBSCL (VCCI chi nhánh ĐBSCL) cho biết, khu vực ĐBSCL ghi nhận tín hiệu tích cực khi dòng vốn ngân sách Trung ương tăng lên đáng kể trong những năm gần đây, nhất là nguồn vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông, bao gồm các tuyến cao tốc trục dọc và trục ngang.

Theo đó, nếu như năm 2021, vốn ngân sách đầu tư cho ĐBSCL là 64.113 tỉ đồng, thì hai năm tiếp theo, tức 2022 và 2023 lần lượt đạt 72.265 và 80.791 tỉ đồng.

Tuy nhiên, trái ngược với tín hiệu tích cực của dòng vốn ngân sách, thu hút FDI vào ĐBSCL lại đi xuống. Trong đó, năm 2021, vốn FDI vào ĐBSCL là 26.144 tỉ đồng và hai năm tiếp theo lần lượt đạt 19.808 tỉ đồng và 17.079 tỉ đồng.

Trong khi vốn ngân sách và FDI đi ngược chiều nhau thì dòng vốn khu vực tư nhân cho ĐBSCL gần như không biến động, tức giữ ổn định quanh mức trên dưới 150.000 tỉ đồng trong ba năm gần đây. Vốn tư nhân cho ĐBSCL chỉ bằng 16% của khu vực Đông Nam bộ; 18% của Đồng bằng sông Hồng và bằng 60% của Duyên hải miền Trung. Điều này, dẫn đến kết quả, tổng vốn đầu tư toàn xã hội cho khu vực ĐBSCL có tỷ lệ không đổi so với cả nước trong một thời gian dài.

Cụ thể, báo cáo của VCCI chi nhánh ĐBSCL cho thấy, tổng vốn đầu tư toàn xã hội của ĐBSCL trong 10 năm qua (2014-2023) chỉ đạt khoảng 11% so với cả nước, cao hơn khu vực Tây Nguyên và Trung du miền núi phía Bắc. Tính riêng năm 2023, vốn đầu tư cho ĐBSCL đạt 251.310 tỉ đồng, bao gồm 80.791 tỉ đồng từ ngân sách; 17.079 tỉ đồng vốn FDI và 153.440 tỉ đồng từ khu vực tư nhân.

Ông Nguyễn Phương đến từ Phòng tư vấn và thông tin kinh tế thuộc VCCI chi nhánh ĐBSCL cho biết, giai đoạn 2015-2023, vốn đầu tư toàn xã hội vùng ĐBSCL có tốc độ tăng trưởng chậm hơn so với cả nước. Cụ thể, vốn đầu tư toàn xã hội bình quân chung cả nước là 6,9%, trong khi ĐBSCL chỉ 6%.

Trong khi đó, ông Nguyễn Phương Lam nhìn nhận, hai yếu kém dẫn đến thực trạng của ĐBSCL là dòng vốn FDI vào vùng giảm, từ 11% so với cả nước trong những năm trước xuống còn hơn 7% như hiện nay; hạn chế về doanh nghiệp tư nhân, bao gồm cả giảm đăng ký mới lẫn vốn đầu tư.

Chẳng hạn, với nguồn vốn từ khu vực tư nhân, 5 năm trở lại đây, 13 địa phương ĐBSCL với 18 triệu dân nhưng hàng năm có thêm chưa đến 1.500 doanh nghiệp để bổ sung nguồn lực vào xã hội. “Riêng năm 2023, ĐBSCL có 15.043 doanh nghiệp thành lập mới nhưng có 14.852 doanh nghiệp rời bỏ thị trường, tức năm ngoái có thêm chỉ 191 doanh nghiệp tham gia vào thị trường”, ông Lam dẫn chứng.

Trong khi ĐBSCL có thêm 191 doanh nghiệp thì Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng lần lượt “bổ sung thêm 25.769 và 18.437 doanh nghiệp, tức cao hơn ĐBSCL lần lượt trên 134 và 96,5 lần. Hay nói cách khác (một cách tương đối) nguồn lực khu vực tư nhân “bổ sung vào xã hội” của Đông Nam bộ và Đồng bằng sông Hồng trong năm 2023 cao gấp 134 và 96,5 lần của ĐBSCL.

Rõ ràng, dù tỷ lệ vốn ngân sách có cải thiện, nhưng do những hạn chế trong thu hút nguồn lực FDI cũng như khu vực tư nhân, khiến vốn đầu tư toàn xã hội suốt một thời gian dài vào ĐBSCL vẫn “giậm chân tại chỗ”. Điều này cũng phản ánh đúng thực tế khi bức tranh phát triển của ĐBSCL suốt thời gian dài vừa qua hầu như không thay đổi. Từ 2017 đến 2023, tỷ trọng cơ cấu kinh tế của khu vực I, II, III và thuế- trợ cấp luôn duy trì ổn định.

Long An là điểm sáng của ĐBSCL trong thu hút vốn đầu tư, nhất là ở lĩnh vực công nghiệp. Trong ảnh là một số nhà máy công nghiệp đang hoạt động ở ĐBSCL. Ảnh minh họa: Trung Chánh

Long An là điểm sáng của ĐBSCL trong thu hút vốn đầu tư, nhất là ở lĩnh vực công nghiệp. Trong ảnh là một số nhà máy công nghiệp đang hoạt động ở ĐBSCL. Ảnh minh họa: Trung Chánh

Có nên tham khảo “điểm sáng” Long An?

Trước bối cảnh ảm đạm của ĐBSCL, Long An lại nổi lên như là điểm sáng về thu hút nguồn lực đầu tư phát triển xã hội, dù vẫn thua kém nhiều địa phương khác trong cả nước. Vậy, Long An có thể trở thành mô hình để những địa phương còn lại của ĐBSCL học hỏi hay không?

Câu trả lời dĩ nhiên cần được nghiên cứu, nhưng có một thực tế, đó là Long An đang vượt lên khá xa so với nhiều địa phương còn lại trong vùng ĐBSCL.

Theo đó, với FDI, Long An chiếm 70% số dự án và 38% vốn của cả vùng (ĐBSCL hiện có 2.063 dự án và hơn 35,6 tỉ đô la Mỹ vốn FDI); với nguồn lực khu vực tư nhân, Long An cũng là một trong số ít địa phương có vốn đầu tư vào xã hội ở mức cao, đạt hơn 18.700 tỉ đồng năm 2023, cao gấp 3,3 lần so với địa phương thấp nhất vùng là An Giang (5.681 tỉ đông).

Câu hỏi được đặt ra, đó là Long An đã làm gì để có được sự khác biệt so với những địa phương còn lại của ĐBSCL?

Ông Trần Văn Tươi, Phó giám đốc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Long An cho biết, địa phương tiếp nhận dòng vốn tốt nhờ tiếp giáp vùng kinh tế năng động của cả nước là Đông Nam bộ.

Tuy nhiên, để tận dụng được lợi thế nêu trên, Long An đã chủ động từ sớm trong quy hoạch phát triển công nghiệp, với 16.422 héc ta đến năm 2050, trong đó, dư địa còn khoảng 10.000 héc ta sẵn sàng phục vụ nhà đầu tư.

Bên cạnh cải thiện Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) để tạo niềm tin cho doanh nghiệp, Long An đã tận dụng tốt các “mối quan hệ” để kêu gọi doanh nghiệp đến đầu tư.

Chẳng hạn, qua tham tán thương mại, Trưởng Thương vụ Việt Nam tại Singapore, ông Cao Xuân Thắng, nhiều đoàn doanh nghiệp Singapore đã đến Long An, thậm chí Long An còn quay ngược sang Singapore để mời gọi. “Đây chính là điều kiện dẫn dắt doanh nghiệp đến Long An”, ông Tươi nhấn mạnh.

Một điểm đặc biệt được Long An áp dụng, đó là xúc tiến đầu tư tại chỗ, tức để doanh nghiệp FDI kể cho doanh nghiệp khác (khi đến tham quan) về câu chuyện được tạo thuận lợi hoặc giải quyết khó khăn xảy ra, nếu có. “Cách xúc tiến như vậy rất hiệu quả, kéo doanh nghiệp khác sang đầu tư ngay”, ông Tươi nói.

Liên quan câu chuyện thu hút nguồn lực cho ĐBSCL, ở góc độ doanh nghiệp, ông Toshiyuki Fukuda, Tổng giám đốc Công ty TNHH Nippon Koei Việt Nam International cho rằng, nơi có tiện ích phục vụ đời sống tốt là yếu tố có ảnh hưởng đến việc rót vốn của nhà đầu tư, nhất là những doanh nghiệp nhỏ, mang theo gia đình khi… “đi làm ăn”.

Trong khi đó, với các tập đoàn lớn, địa điểm chọn đầu tư thường là nơi có chi phí nhân công rẻ, nhất là lĩnh vực chế biến thực phẩm, may mặc.

Ngoài ra, theo ông Toshiyuki Fukuda, nơi có hạ tầng, môi trường kinh doanh tốt, lao động có tay nghề luôn được nhà đầu tư ưu tiên.

Từ những đòi hỏi nêu trên, nếu ĐBSCL thay đổi, cải thiện môi trường đầu tư, hỗ trợ doanh nghiệp nhiều hơn cũng như nâng cao các tiện ích liên quan, thì dòng vốn sẽ tăng lên. Khi đó, nguồn lực đầu tư toàn xã hội của vùng sẽ được cải thiện.

Trong khi đó, để tăng thu hút nguồn lực cho ĐBSCL, ông Phạm Duy Tín, Trưởng ban Ban quản lý các khu chế xuất và khu công nghiệp thành phố Cần Thơ cho rằng, cần phải đẩy mạnh phát triển công nghiệp.

Muốn vậy, bên cạnh giải quyết bài toán nguồn vật liệu phục vụ phát triển hạ tầng công nghiệp, khu vực ĐBSCL phải phát triển hệ thống logistics, cảng, có thể thông quan tại chỗ với thủ tục thông thoáng.

Ngoài ra, ông Tín đề xuất cần có Luật khu công nghiệp, khu kinh tế, bởi cả nước hiện có khoảng 426 khu công nghiệp và 19 khu kinh tế phát triển gần 30 năm qua, nhưng hành lang pháp lý chỉ dừng lại ở các nghị định, chưa tạo được sự an tâm cho nhà đầu tư. “Chúng ta phải cam kết bằng luật mới hy vọng người ta đổ vốn vào ngày càng nhiều hơn”, ông nhấn mạnh.

Trung Chánh

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/nguon-luc-dau-tu-10-nam-khong-doi-mo-hinh-nao-de-dbscl-di-len/