Tính đến các giải pháp chủ động phòng ngừa tăng nợ xấu

Nhất trí với việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu, nhiều đại biểu tham dự phiên thảo luận tại tổ sáng qua lưu ý, trước những dự báo nợ xấu có thể tăng trong thời gian tới, Chính phủ cần xem xét các giải pháp chủ động phòng ngừa, tránh tạo khoảng trống pháp lý sau khi Nghị quyết hết hiệu lực thi hành.

ĐBQH Nguyễn Việt Hà (Tuyên Quang): Kéo dài thời gian thực hiện là cần thiết

Việc kéo dài thời gian thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng là cần thiết và đúng đắn. Lũy kế từ ngày 15.8.2017 đến 31.12.2021, các tổ chức tín dụng đã xử lý được 380.200 tỷ đồng nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14, nợ xấu được xử lý hàng tháng cũng cao hơn so với giai đoạn trước khi có Nghị quyết này. Đây là những thành quả rất quan trọng.

Bên cạnh đó, việc thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 còn góp phần nâng cao nhận thức của khách hàng trong việc đi vay và trả nợ, có ý thức hợp tác hơn với tổ chức tín dụng trong việc trả nợ; tạo sự đồng cảm, tăng cường phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong thu hồi nợ.

Số nợ xấu cần xử lý theo Nghị quyết 42/2017/QH14 vẫn còn tương đối cao, theo Báo cáo của Chính phủ còn hơn 400.000 tỷ đồng. Trong khi đó, khách hàng là doanh nghiệp, người dân vẫn gặp khó khăn do dịch Covid-19, cần có thời gian để phục hồi. Các ngân hàng nhà nước, tổ chức tín dụng đang thực hiện giải pháp cơ cấu lại thời hạn trả nợ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp. Điều đó đồng nghĩa nợ xấu sẽ tăng trong thời gian tới. Nếu dừng việc áp dụng Nghị quyết 42/2017/QH14 trong khi chưa luật hóa vấn đề này, các tổ chức tín dụng sẽ không còn công cụ để thu hồi nợ xấu, tạo ra áp lực, thách thức lớn đối với Ngân hàng Nhà nước cũng như các tổ chức tín dụng, gây hệ lụy tiêu cực đối với kinh tế vĩ mô.

ĐBQH Lê Minh Nam (Hậu Giang): Xử lý nợ xấu cần hiệu quả, thực chất, bền vững

Nghị quyết 42/2017/QH14 của Quốc hội là quyết sách đúng đắn, kịp thời và phù hợp với thực tiễn, giúp tạo lập khuôn khổ pháp lý để xử lý các khoản nợ xấu, góp phần tháo gỡ khó khăn vướng mắc, hỗ trợ các tổ chức tín dụng trong việc xử lý nợ xấu.

Bên cạnh những kết quả đạt được, Báo cáo của Chính phủ cũng nêu một số khó khăn, vướng mắc trong phối hợp triển khai thực hiện Nghị quyết. Trong đó, một số khó khăn, vướng mắc nêu trong báo cáo cần được xem xét nhằm nhận diện rõ vấn đề, từ đó có cách giải quyết thật sự đúng đắn, phù hợp.

Đơn cử, liên quan đến việc áp dụng thủ tục rút gọn trong xử lý tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm hoặc xử lý tài sản bảo đảm, báo cáo nêu việc hoàn thiện các thủ tục theo yêu cầu của Tòa án để áp dụng thủ tục rút gọn gặp nhiều khó khăn do khi xảy ra nợ xấu, đa phần khách hàng trốn tránh, không hợp tác với tổ chức tín dụng để phối hợp xử lý nên rất khó thực hiện… Tuy nhiên, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Bộ luật Tố tụng Hình sự, điều kiện quan trọng để được áp dụng thủ tục rút gọn là vụ án có tình tiết đơn giản, quan hệ pháp luật rõ ràng, chứng cứ đầy đủ. Trong quan hệ vay nợ và thế chấp tài sản, thường quan hệ pháp luật rất rõ ràng, cụ thể; cam kết giữa các bên cũng chặt chẽ, thường là theo mẫu có sẵn của các tổ chức tín dụng. Nếu bên vay không trả nợ thì phải xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ. Quy định rõ ràng như thế nhưng lại có vướng mắc trong quá trình tổ chức thực hiện thì cần xem xét lại khâu phối hợp tổ chức thực hiện? Bởi đã có cơ sở pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm tại Nghị quyết 42/2017/QH14, các quy định pháp luật khác có liên quan cũng đã quy định rõ.

Một khó khăn, vướng mắc khác được nêu trong báo cáo của Chính phủ là thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, trong đó cho rằng các tổ chức tín dụng phản ánh việc xếp thứ tự ưu tiên thanh toán thuế thu nhập cá nhân và án phí dân sự dẫn đến việc tài sản bảo đảm sau khi được xử lý không đủ trả nợ cho các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, với vướng mắc này, các tổ chức tín dụng không thể thắc mắc được vì về nguyên tắc phòng ngừa rủi ro, khi cho vay có thế chấp tài sản bảo đảm, các tổ chức tín dụng có trách nhiệm thẩm định tài sản bảo đảm và quyết định mức cho vay phù hợp để bảo đảm khả năng thu hồi nợ, kể cả trong trường hợp không xử lý được nợ xấu thì tài sản bảo đảm cũng phải đáp ứng thu hồi được nợ.

Trước đây các tổ chức tín dụng thường cho vay với giới hạn tối đa 70% giá trị tài sản bảo đảm. Tuy nhiên, bây giờ để cho các tổ chức tín dụng chủ động trong quá trình quản trị, đẩy mạnh hoạt động cho vay hoặc vì lý do cạnh tranh nên các tổ chức tín dụng nâng giới hạn này lên, thậm chí lên tới 90 - 95% giá trị tài sản bảo đảm, dẫn đến rủi ro không thu hồi được nợ trong trường hợp xấu xảy ra. Vì vậy, vướng mắc không hoàn toàn đến từ chính sách, pháp luật mà đến từ việc tổ chức thực hiện của các tổ chức tín dụng. Do đó, cần rà soát, đánh giá lại những khó khăn, vướng mắc này.

Vấn đề xử lý nợ xấu hiệu quả không chỉ dựa vào các giải pháp xử lý và các căn cứ pháp lý trong Nghị quyết 42/2017/QH14 mà cần thiết xem xét các giải pháp chủ động phòng ngừa. Nguyên nhân dẫn đến nợ xấu, ngoài các yếu tố khách quan, còn cần kiểm soát các yếu tố chủ quan, trong đó có quy trình quản trị cho vay của một số tổ chức tín dụng. Bởi thực tế hiện nay một số nơi quản trị cho vay còn lỏng lẻo. Xử lý nợ xấu cần thực hiện hiệu quả, thực chất, bền vững bởi lĩnh vực này tiềm ẩn nhiều rủi ro về lâu dài.

ĐBQH Cầm Thị Mẫn (Thanh Hóa): Tiếp tục duy trì các biện pháp giảm nợ xấu

Việc thực hiện Nghị quyết 42/2017/QH14 đã tạo hành lang pháp lý cần thiết cho xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và mang lại những chuyển biến tích cực, thể hiện định hướng chính sách đúng đắn của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, củng cố niềm tin đối với xã hội trong công tác xử lý nợ xấu. Đồng thời, cũng góp phần quan trọng vào kết quả triển khai kế hoạch cơ cấu lại nền kinh tế giai đoạn 2016 - 2020 theo Nghị quyết 24/2016/QH14 của Quốc hội Khóa XIV và Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19.7.2017 của Thủ tướng Chính phủ.

Trong điều kiện kinh tế đất nước đang có một số tác động bất lợi do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19 cũng như diễn biến phức tạp của tình hình thế giới nên dự báo nợ xấu có thể gia tăng. Điều này đặt ra yêu cầu với Quốc hội, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục duy trì các biện pháp giảm nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, khơi thông nguồn vốn cho nền kinh tế. Đề nghị Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước trong thời gian kéo dài cần nghiên cứu để luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết 42/2017/QH14 nhằm tạo hành lang pháp lý ổn định cho công tác xử lý nợ xấu trong giai đoạn tiếp theo.

Thanh Chi - Hoàng Ngọc - Minh Trang ghi

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/dien-dan-quoc-hoi-va-cu-tri/tinh-den-cac-giai-phap-chu-dong-phong-ngua-tang-no-xau-i290148/