1001 thắc mắc: Bác sĩ đầu tiên của y học hiện đại trên thế giới là ai?
Di sản ông để lại chính là lời tuyên thệ Hippocratic, xuất phát từ đạo đức và tiêu chuẩn ông đặt ra, một hướng dẫn đạo đức cho các bác sĩ ngày nay. Rất nhiều điều trong bộ sách của ông vẫn đúng cho đến ngày nay.
Hipocrates là ông tổ của ngành y học phương Tây
Hipocrates là ông tổ của ngành y học phương Tây, người sáng tạo ra lời thề Hippocrates mà sinh viên y khoa phải đọc khi chuẩn bị ra trường.
Theo Biography, bác sĩ Hippocrates sinh ra trên đảo Aegean, Hy Lạp, khoảng giữa thế kỷ thứ 5 trước công nguyên. Ông được coi là bác sĩ đầu tiên của y học hiện đại. Ở thời đại này, y học vẫn gắn liền với tôn giáo và bệnh tật, được chữa trị bằng những hiện tượng siêu nhiên thần bí. Tuy nhiên, Hippocrates bác bỏ những quan niệm này và trở thành người đầu tiên xem y học là ngành khoa học.
Hippocrates cho rằng mỗi bệnh tật đều có nguyên nhân tự nhiên riêng. Tập hợp các tác phẩm do Hippocrates trình bày là một sự hiểu biết thô sơ về cách cơ thể hoạt động và bản chất của bệnh tật.
Di sản ông để lại chính là lời tuyên thệ Hippocratic, xuất phát từ đạo đức và tiêu chuẩn ông đặt ra, một hướng dẫn đạo đức cho các bác sĩ ngày nay. Rất nhiều điều trong bộ sách của ông vẫn đúng cho đến ngày nay.
20 năm tù giam vì quan điểm y học là ngành khoa học
Hippocrates sinh vào khoảng 460-370 Trước Công nguyên tại đảo Cos, Hy Lạp. Ông được học nghề y từ cha là Heracleides và trở thành một y sĩ Hy Lạp. Ở thời đại này, y học vẫn gắn liền với tôn giáo và bệnh tật được chữa trị bằng những hiện tượng siêu nhiên thần bí.
Tuy nhiên, Hippocrates bác bỏ những quan niệm này và là người đầu tiên coi y học là ngành khoa học và cho rằng mỗi bệnh tật đều có nguyên nhân tự nhiên riêng. Và tất nhiên, ông bị chống đối kịch liệt và phải ngồi tù 20 năm do chống lại lối mòn xưa cũ gắn liền với cường quyền.
Mặc dù vậy, với bộ óc đi trước thời đại, thời gian trong tù, Hippocrates đã viết quyển "Cơ thể phức tạp" về cơ thể con người mà rất nhiều điều trong đó vẫn đúng cho đến ngày nay.
Thành lập trường y, đi khắp lục địa để hành nghề y, viết sách
Tên đầy đủ ông là Hippocrates Asclepiades, có nghĩa “bác sĩ thần Asclepios”. Khoảng năm 400 trước công nguyên, ông thành lập trường y, cùng với các môn đồ của mình đưa ra phương pháp khoa học để khám và điều trị cho người bệnh. Người thầy thuốc phải trực tiếp khám cho người bệnh và tìm ra bệnh qua các triệu chứng biểu hiện, phải bốc thuốc kê đơn sau đó theo dõi để xem việc điều trị có kết quả hay không. Thời điểm này nhiều phương pháp y học của Hippocrates được phát triển. Các nhà sử học tin rằng Hippocrates đi khắp lục địa Hy Lạp và có thể cả Libya cùng Ai Cập để hành nghề y.
Đến nay, phần lớn những gì được biết về phương pháp y học đến từ một bộ sưu tập hơn 60 cuốn sách y học Hippus Corpus, được coi là những tác phẩm cổ nhất về y học. Bộ sưu tập được biên soạn 100 năm sau khi ông qua đời. Các sử gia tin rằng các tài liệu giúp ích cho các bác sĩ khi hành nghề y trong suốt cuộc đời sau này.
Các tác phẩm của Hippocrates nêu quan điểm "chế độ ăn uống lành mạnh và tập luyện thể chất là một phương thuốc hữu hiệu cho hầu hết các bệnh". Hippocrates chỉ ra cách định vị khớp, tầm quan trọng của việc lưu giữ hồ sơ về lịch sử và cách điều trị, mối quan hệ giữa thời tiết và một số bệnh tật. Các bác sĩ vào thời điểm đó chỉ quan sát người bệnh, dựa trên những gì có thể nhìn thấy hoặc cảm thấy bên ngoài. Họ cũng làm thí nghiệm trên các loài động vật để so sánh với con người, nhưng tuyệt đối không thí nghiệm trên người đã mất.
"Y thuật thì dài còn cuộc đời lại ngắn ngủi"
Nền y học của Hippocrates bị ảnh hưởng bởi lý thuyết Pythagore cho rằng thiên nhiên được tạo nên từ 4 nguyên tố: nước, đất, gió và lửa. Theo đó, cơ thể cũng sẽ bao gồm 4 khí chất: mật vàng, mật đen, đờm và máu, cùng có đặc tính khô, nóng, ướt và lạnh.
Ông đã nghiên cứu sinh lý học, giải phẫu, tìm hiểu các nguyên nhân có chứng cớ, trực tiếp, và các nguyên nhân còn chưa rõ của bệnh tật. Từ đó, ông kết luận bệnh tật là do mất cân bằng tỷ lệ dịch trong cơ thể gây ra. Khi điều này xảy ra, thầy thuốc có thể can thiệp giúp cơ thể trở về trạng thái cân bằng.
Ông và các môn đồ của mình đã đưa ra phương pháp khoa học để khám và điều trị cho người bệnh. Người thầy thuốc phải trực tiếp khám cho người bệnh và tìm ra bệnh qua các triệu chứng biểu hiện, phải bốc thuốc kê đơn sau đó theo dõi để xem việc điều trị có kết quả hay không.
Hippocrates khuyên các thầy thuốc ghi chép lại các phát hiện và phương pháp điều trị của họ để truyền lại cho các thế hệ sau áp dụng. Một nguyên tắc y học nổi tiếng của ông là: “Trước tiên là không làm gì có hại” và “Y thuật thì dài còn cuộc đời lại ngắn ngủi”.
Ngày nay người ta vẫn còn sử dụng những dấu hiệu, những dụng cụ mang tên Hippocrates vì ông được cho là người đầu tiên tìm ra như “bộ mặt hippocrates” (bộ mặt của người chết, người ốm lâu ngày, người bị đói...), “ngón tay hippocrates” (ngón tay hình dùi trống ở những bệnh nhân bị bệnh tim mạch, bệnh phổi ...), “ghế hippocrates” (ghế dùng lực nén để cố định xương)....
Nguyên văn lời thề Hippocrates:
“Tôi tuyên thệ với Apollo, thần chữa bệnh, Asclepius, Hygieia và Panacea, và tôi minh chứng với tất cả các nam thần, các nữ thần, tôi gìn giữ, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi, lời thề sau đây:
Yêu kính, như là cha mẹ tôi, người đã dạy tôi môn học này; sống hòa nhã với thầy và nếu cần, chia sẻ tài sản với thầy; chăm sóc con cái thầy như là anh chị em tôi và dạy họ môn học này.
Tôi sẽ kê toa vì lợi ích của bệnh nhân, tùy theo khả năng và thẩm định của tôi và không bao giờ làm hại ai.
Tôi không bao giờ đưa thuốc giết người cho bất kỳ ai hỏi tôi và sẽ không tư vấn một kế hoạch như vậy. Tôi sẽ không cho bất kỳ người phụ nữ nào một dụng cụ phá thai.
Nhưng tôi sẽ giữ tinh khiết cho đời tôi và cho nghề nghiệp của tôi.
Tôi sẽ không giải phẫu để lấy sạn, kể cả đối với bệnh nhân biểu lộ là mang bệnh này. Tôi sẽ dành việc giải phẫu cho những y sĩ, chuyên gia về bệnh này.
Mỗi căn nhà tôi bước vào vì lợi ích của bệnh nhân của tôi, giữ gìn tôi khỏi mọi ý đồ xấu xa và mọi cám dỗ, đặc biệt là khỏi các khoái lạc tình yêu với phụ nữ hay với nam giới, dù họ là người tự do hay nô lệ.
Tất cả mọi điều tôi biết trong khi hành nghề hay trong giao tiếp với mọi người mà không nên để lộ ra ngoài, tôi sẽ giữ bí mật và sẽ không bao giờ tiết lộ.
Nếu tôi giữ lời thề này một cách thành khẩn, tôi sẽ được an hưởng đời tôi và thực hành nghề tôi, được mọi người kính trọng mãi mãi. Nếu tôi đi trái đường và vi phạm lời thề, những điều ngược lại sẽ đến với tôi”.