Ba bài thơ Bác Hồ viết trên vách đá hang động Quảng Tây

Khoảng đầu năm 2013, ông Lê Xuân Đức, một người có nhiều năm nghiên cứu thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh, tìm đến tôi, cho tôi xem một số bài thơ chữ Hán của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngoài 'Nhật ký trong tù' và cho biết, ông đang làm một cuốn sách có nội dung như vừa nói.

Cuốn sách sẽ do Nhà xuất bản (Nxb) Chính trị Quốc gia xuất bản. Ông và Nxb đã nhờ một nhà nho cao niên dịch những bài thơ chữ Hán trong cuốn sách dự kiến ấy sang thơ Việt - quốc ngữ. Tuy nhiên, Nxb và cả ông đều thấy chưa hoàn toàn ưng ý với những bản dịch đó và bây giờ, tìm tôi để nhờ dịch lại. Giật mình, tôi từ chối!

Bác Hồ làm việc ở Pác Bó. Tranh: Trịnh Phòng.

Ông Đức thuyết phục mãi, tôi đành thưa lại rằng, tôi chỉ có thể nhận lời nếu Nxb và soạn giả có lời thưa lại với nhà nho cao niên kia và nếu nhà Nho ấy cũng đồng ý để tôi dịch lại thì tôi mới dám làm! Mấy ngày sau, ông Lê Xuân Đức cho biết, nhà nho cao niên kia đã vui vẻ đồng ý, thế là tôi bắt tay vào làm. Ít tuần sau, việc đã xong và tôi trao lại tất cả cho ông Lê Xuân Đức.

Trong khi đợi sách được xuất bản, xin được giới thiệu với các bạn một số bài thơ của Bác nói trên. Đó cũng là một cách để chúng ta hiểu thêm về Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là về "sự nghiệp thơ" của Người, cái "sự nghiệp" vốn luôn như là "vịnh" Tình - Cảnh - Sự, vốn luôn như là "gặp gỡ - đưa tiễn - giao đãi", nhưng sau đó, lại góp phần đắc lực vào "sự nghiệp cách mạng" của Bác.

*

Về ba bài thơ này, ông Lê Xuân Đức cho biết: "Ngày 19/ 5/ 2014, sinh nhật Bác Hồ, sau buổi thuyết trình "Chủ tịch Hồ Chí Minh và văn hóa Việt Nam - văn hóa nhân văn, văn hóa hòa bình", tôi có buổi chuyện trò, trao đổi với Giáo sư (GS) Hoàng Tranh, Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, người có nhiều công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh và được GS cho biết, theo ông Hoàng Nghị, phụ trách "Phòng trưng bày Hồ Chí Minh với nhân dân dân tộc Choang, Quảng Tây" thì tại động Long Lâm, huyện Tĩnh Tây, có hai bài thơ của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh viết trên vách đá.

Hôm sau, GS Phạm Hồng Quý, người khá am hiểu về văn học Việt Nam, đưa tôi đến gặp cô giáo Trần Lệ Hoan, phu nhân của cố GS Lâm Đại Phàm. Cô giáo cho biết, theo lời kể của GS Phàm, ở động Long Lâm có thơ Bác Hồ. Theo chân một cán bộ Bảo tàng Tĩnh Tây, tôi đến được động Long Lâm, cách thị trấn cùng tên chừng 3km. Dân trong vùng gọi động này là động Đức Môn. Động ở lưng chừng núi, cây cối rậm rạp, hiểm trở, nay được mở lối mòn, tu bổ/ bảo tồn thành một di tích lịch sử - văn hóa.

Theo các nhà nghiên cứu Trung Quốc và người cao tuổi địa phương, khoảng những năm đầu thập niên 30, thế kỷ XX, người tìm ra động này là ông Trương Đình Duy. Ông đã dọn động làm chỗ ẩn nấp cho gia đình mỗi khi có biến. Đầu tháng 12/1940, Bác Hồ rời Văn phòng Bát lộ quân ở Quế Lâm về Tĩnh Tây, tìm cách bắt liên lạc với các đồng chí từ trong nước sang, cùng chuẩn bị kế hoạch về nước. Thời gian này, Bác ở nhà hai ông Trương Đình Duy và Lâm Bích Phong. Tại đây, Bác kết nghĩa anh em với một số người ở địa phương. Ông Trương Đình Duy nhiều tuổi nhất được tôn là anh Cả, Bác Hồ là anh Hai, Lâm Bích Phong (thân phụ của cố GS Lâm Đại Phàm) là anh Ba… Lê Quảng là người thứ 12.

Lúc bấy giờ tình hình vùng này không được yên ổn. Những người anh em kết nghĩa đã đưa Anh Hai vào ở động Long Lâm. Hàng ngày, những người anh em này thay nhau đem cơm và tin tức vào cho anh Hai. Trương Thuật Phong, cháu nội ông Trương Đình Duy, thường được phân công vào động cùng ở và giúp đỡ ông Hai những việc cần thiết. Trương Thuật Phong cho hay, những lúc cao hứng, Bác thường đọc thơ. Thấy thơ hay và đúng cảnh, Trương Thuật Phong đã dùng than củi viết lại thơ Bác Hồ lên vách đá trong động (có bài viết theo hàng dọc, từ phải sang trái, như lối viết cũ)".

Dưới đây là ba bài thơ ấy (tên các bài thơ là ông Lê Xuân Đức và tôi tạm đặt để bạn đọc dễ theo dõi):

LONG LÂM ĐỘNG - I (riêng bài này, được viết theo lối cũ: từ trên xuống dưới, từ phải sang trái):

Phiên âm Hán - Việt:

LONG LÂM ĐỘNG - I

Tam Đài đối diện điểu thanh điềm
Lưu thủy sàn sàn bạn ngã miên
Tẩu biến thiên nhai thiên lý lộ
Tàng thân thử động tối an an.

Dịch nghĩa:

LONG LÂM ĐỘNG - I

Trên núi Tam Đài, đối diện với cửa động, tiếng chim hót ngọt ngào/ Nước chảy rì rầm cùng tôi vào giấc ngủ/ Đi khắp chân trời, trên đường ngàn dặm/ Ẩn thân ở động này là nơi rất an tĩnh - an toàn.

Dịch thơ theo nguyên thể là:

ĐỘNG LONG LÂM - I

Chim núi Tam Đài gù trước động
Nước ru ta ngủ những canh chầy
Bôn tẩu chân trời ngàn dặm thẳm
Ẩn mình tốt nhất, chốn này đây.

(Đỗ Trung Lai dịch lại)

Dịch thành thơ lục bát là:

ĐỘNG LONG LÂM - I

Chim gù động núi Tam Đài
Rì rầm nước chảy canh dài ru ta
Chân trời, ngàn dặm bôn ba
Ẩn mình, đâu tốt hơn là nơi đây.

(Đỗ Trung Lai dịch lại)

LONG LÂM ĐỘNG - II

(Từ đây, thơ chữ Hán của Bác được viết theo lối mới: Từ trái sang phải, từ trên xuống dưới)

Phiên âm Hán - Việt:

LONG LÂM ĐỘNG - II

Thử động chân chính hảo
Thắng tỷ Thất Tinh nham
Việt nhân đáo thử xứ
Mạc bất tâm khai nhan

Dịch nghĩa:

Động này thật sự là rất tốt/ Tốt hơn ở núi Thất Tinh (trước đây tôi đã từng ở, tại Quế Lâm)/ Người khách Việt nay đến nơi này/ Không thể không mừng rỡ, hài lòng được.

Dịch thơ theo nguyên thể là:

ĐỘNG LONG LÂM - II

Động này tốt hơn hẳn
Núi Thất Tinh ngày nào
Khách Việt về đây ẩn
Không vui mà được sao?

(Đỗ Trung Lai dịch lại)

Dịch thành thơ lục bát là:

ĐỘNG LONG LÂM - II

Động này tốt nhất từ xưa
Thất Tinh Sơn cũng còn thua động này
Có người khách Việt về đây
Miệng cười, lòng cũng dâng đầy niềm vui.

(Đỗ Trung Lai dịch lại)

Ông Lê Xuân Đức cũng cho biết: "Theo GS Hoàng Tranh, vào thập niên 80 của thế kỷ trước, có người đốt lửa trong động Long Lâm, làm hỏng bài thơ này. Một người trong số 12 người kết nghĩa trước đây, nhớ bài thơ đó và đã viết lại trên một vách đá khác.

Về bài thơ viết trong động Ba Mông, thì trong chuyến đi điền dã theo những địa danh mà Bác Hồ bị giam, bị giải qua 30 nhà tù từ Tĩnh Tây đến Nam Ninh, tôi được cháu nội của cụ Từ Vĩ Tam đưa đến những nơi Bác đã thường qua lại. Trong thời gian ấy, Bác chủ yếu ở nhà hai ông Từ Vĩ Tam và Vương Tích Cơ. Vương Tích Cơ, Từ Vĩ Tam, Hoàng Đức Quyền, Hoàng Tài Phán cùng Bác kết nghĩa anh em, một lòng một dạ với nhau.

Dạo ấy, bọn hương cảnh Quốc Dân Đảng hay đến thôn lục soát, bắt bớ. Để đảm bảo an toàn cho Bác, thấy cách thôn Ba Mông khoảng hơn 1km có núi Phong Nham, trong núi có một ngôi động không rộng, không sâu lắm, rất ít người biết, Từ Vĩ Tam và Vương Tích Cơ đưa Bác vào động này và cử Hoàng Tài Phán vào cùng ở, vừa chăm sóc Bác vừa giữ mối liên lạc với bên ngoài. \

Theo lời kể của ông Hoàng Tài Phán, Bác đã dùng nước vôi viết trên vách đá những câu chữ Hán như "Kết nghĩa đệ huynh, đại gia nhất điều tâm" (Kết nghĩa anh em, mọi người đồng lòng), "Thực hành tân sinh hoạt, hoàn ngã cựu sơn hà" (Thực hành đời sống mới, trả lại non sông cũ cho ta), đặc biệt có bốn câu thơ viết bằng than củi:

Phiên âm Hán - Việt:

Nhật xuất Đông phương nhất điểm hồng
Nga mi phượng nhãn tự loan cung
Mãn thiên tinh đẩu linh định điếu
Ô vân cái nguyệt ám mông lung.

(Dịch nghĩa: Mặt trời mọc, phương Đông hiện lên một điểm hồng/ Như mắt chim phượng dưới nét ngài cong/ Đầy trời, sao đêm qua chỉ còn le lói sáng/ Mây đen cũng đã che mờ mịt cả trăng rồi)".

Dịch thơ theo nguyên thể là:

BAN MAI

Phương Đông hiện một mặt trời hồng
Tròn xoe mắt phượng dưới mày cong
Khắp trời, sao chỉ còn le lói
Mây phủ, trăng kia tối mịt mùng.

(Đỗ Trung Lai dịch lại)

Dịch thành thơ lục bát là:

BAN MAI

Trời Đông nhô một chấm hồng
Tròn xoe mắt phượng cong cong nét ngài
Sao mờ trong ánh ban mai
Đêm tàn, trăng nấp sau mây mịt mùng!

(Đỗ Trung Lai dịch lại)

Nguồn VNCA: https://vnca.cand.com.vn/ly-luan/ba-bai-tho-bac-ho-viet-tren-vach-da-hang-dong-quang-tay-i649582/