Bác Hồ luôn quan tâm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vì dân
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, có những chỉ đạo nhằm xây dựng, phát triển các cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, trong đó có VKSND. Nhân kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/5/1890-19/5/2020), hướng tới kỷ niệm 60 năm ngày thành lập ngành Kiểm sát nhân dân (26/7/1960-26/7/2020), phóng viên Báo Bảo vệ pháp luật đã có cuộc phỏng vấn TS. Dương Thanh Biểu, nguyên Phó Viện trưởng VKSND tối cao về nội dung này.
Phóng viên: Ngay sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm đến bộ máy các cơ quan tư pháp, ông có thể cho biết cụ thể hơn về nội dung này?
TS. Dương Thanh Biểu:
Sau khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, chính quyền về tay Nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng một Nhà nước thuộc về Nhân dân, lợi ích phải vì dân; một Nhà nước dân chủ, trong đó Nhân dân là chủ nhân của đất nước; một Nhà nước vận hành và quản lý bằng pháp luật... Đây chính là cơ sở cho việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền và về công tác tư pháp.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong Bản Tuyên ngôn độc lập, Bác đã mở đầu bằng áng văn bất hủ: “Tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Bản Tuyên ngôn độc lập là văn bản pháp lý đầu tiên vô cùng quan trọng, đặt nền móng để bảo vệ nền độc lập, củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng các thiết chế, trong đó có các cơ quan tư pháp của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Giữa bộn bề công việc, ngày 9/11/1946, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa I đã thông qua Bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Có thể nói, đây là Bản Hiến pháp mang đậm dấu ấn tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền lực của Nhân dân.
Đối với cơ quan tư pháp (gồm Tòa án và Công tố - gọi là Tòa án), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến công tác Tòa án. Người coi Tòa án, Công tố là cơ quan trọng tâm của ngành tư pháp, tư pháp là một hệ thống trọng yếu của chính quyền. Khi mới thành lập, các Tòa án, Công tố gặp rất nhiều khó khăn, thiếu thốn. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngành tư pháp đã nhanh chóng thực hiện tốt nhiệm vụ xét xử, trừng trị nghiêm khắc các phần tử phản động, dập tắt âm mưu nổi loạn, cướp chính quyền của địch, góp phần cùng các lực lượng khác bảo vệ Ðảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ Nhân dân.
Tuy ban đầu, chịu sự ảnh hưởng về hệ thống tư pháp của Pháp, như Công tố nằm trong Tòa án... nhưng năm 1950, Bác Hồ đã chỉ đạo tiến hành cải cách bộ máy tư pháp và Luật Tố tụng với những mục đích rất rõ ràng là bộ máy tư pháp cần được "dân chủ hóa", "để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn", "thủ tục tố tụng cần được hợp lý và giản dị hơn". Với ý nghĩa đó, ngày 22/5/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 85 về cải cách bộ máy tư pháp, xây dựng nên những nguyên tắc tiến bộ đầu tiên cho nền tư pháp non trẻ của nước ta. Sắc lệnh số 85, đã có sự cải cách đáng kể về hoạt động tư pháp. Theo đó, các nội dung chính của cải cách tư pháp bao gồm: Dân chủ hóa bộ máy tư pháp (bao gồm hình thành chế độ Hội thẩm nhân dân, Hội đồng hòa giải, chế độ trang phục); cải cách về thẩm quyền để công việc xét xử được nhanh chóng và gần dân hơn; cải cách về tố tụng để thủ tục được hợp lý và giản dị hơn; vị trí, vai trò của Viện Công tố, thể hiện xu hướng gắn bó với Nhân dân và độc lập với Tòa án. Đến năm 1959, pháp luật đã quy định Viện Công tố được tổ chức với tư cách là một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập, thuộc Chính phủ, tách khỏi Bộ Tư pháp, có tổ chức từ Trung ương đến địa phương.
Phóng viên: Khi hòa bình lập lại, miền Bắc tiến lên xây dựng CNXH, ông cho biết rõ hơn về nội dung Đảng và Bác Hồ đã quan tâm xây dựng hệ thống cơ quan VKSND như thế nào?
TS. Dương Thanh Biểu:
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và việc ký kết Hiệp định Giơnevơ năm 1954 mở ra một giai đoạn cách mạng mới ở nước ta. Đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai nhiệm vụ cách mạng khác nhau.
Một trong những yêu cầu xây dựng CNXH là bảo đảm pháp chế thống nhất. Năm 1959, lần đầu tiên trong lịch sử Nhà nước dân chủ nhân dân Việt Nam, VKSND được quy định là một hệ thống cơ quan nhà nước độc lập, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, tổ chức và hoạt động, thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo Hiến pháp và Luật Tổ chức VKSND.
Điều 105, Hiến pháp năm 1959 quy định: “VKSND tối cao nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan nhà nước và công dân. Các VKSND địa phương và Viện kiểm sát quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định”.
Lần đầu tiên, chế định về cơ quan VKSND xuất hiện trong Hiến pháp của Việt Nam. Sự ra đời của VKSND là do bản chất Nhà nước và nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta - quyền lực Nhà nước là thống nhất, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ quy định. Đó cũng là điều cơ bản nhất trong tư tưởng pháp quyền Hồ Chí Minh - Trưởng Ban Soạn thảo Hiến pháp XHCN đầu tiên của nước ta.
Căn cứ vào Hiến pháp năm 1959, ngày 15/7/1960, Quốc hội khóa II nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong Kỳ họp thứ nhất đã thông qua Luật tổ chức VKSND gồm 6 chương, 25 điều, quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ máy của VKSND. Ngày 26/7/1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 20-LCT công bố Luật Tổ chức VKSND, đánh dấu bước ngoặt lớn chuyển từ Viện công tố trở thành VKSND.
Đối với ngành Kiểm sát, từ công tác công tố chuyển sang công tác kiểm sát là một bước tiến bộ. Cán bộ ngành KSND cần nhận thức ý nghĩa chính trị của việc thành lập VKSND, nắm vững nhiệm vụ, quyền hạn, chức năng, tranh thủ sự lãnh đạo của Đảng, dựa vào quần chúng để thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình.
Ngày 2/8/1960, được sự phân công của Bác Hồ, đồng chí Trường Chinh, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội tới thăm VKSND tối cao. Tại đây, đồng chí đã chỉ đạo: “Việc thành lập VKSND chính là để đảm bảo nhiệm vụ chuyên chính dân chủ nhân dân, thực hiện dân chủ rộng rãi và phát triển nền dân chủ ấy… Trước mắt, hiện nay là mở rộng dân chủ với Nhân dân, tăng cường chuyên chính với kẻ thù của Nhân dân. Muốn vậy phải tôn trọng pháp chế dân chủ, thực chất là pháp chế xã hội chủ nghĩa”.
Được sự quan tâm của Bác Hồ, ngày 12/12/1960, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra Thông tri số 13-TT/TW về việc tăng cường lãnh đạo công tác kiểm sát, đề ra một số biện pháp trước mắt là: “Các cấp ủy, các ban, đảng đoàn, thủ trưởng cơ quan, xí nghiệp... cần nghiên cứu, hiểu rõ tầm quan trọng, tác dụng, nội dung của công tác kiểm sát, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND các cấp và trách nhiệm của mình đối với cơ quan kiểm sát, đề ra những biện pháp thiết thực giúp kiện toàn tổ chức và tăng cường hoạt động của VKSND. Cần dùng những biện pháp thích hợp để làm cho cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ ý nghĩa, tác dụng và nội dung công tác kiểm sát, ủng hộ cơ quan kiểm sát. Trong khi tuyên truyền, cần vạch rõ những ưu điểm, thiếu sót trong việc chấp hành pháp luật để cho ai nấy càng thấy rõ: Làm tốt công tác kiểm sát không những có lợi cho sự nghiệp cách mạng chung mà còn bảo đảm quyền lợi chính đáng của mỗi người...”
Ngày 18/4/1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Lệnh số 12/LCN công bố Pháp lệnh Kiểm sát viên. Theo đó, VKSND tối cao có Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, các Kiểm sát viên… Pháp lệnh cũng quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, Kiểm sát viên và Ủy ban Kiểm sát.
Ngày 1/2/1963, được sự quan tâm của Bác Hồ, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về công tác kiểm sát. Nghị quyết khẳng định vai trò quan trọng của ngành Kiểm sát trong công cuộc xây dựng CNXH ở miền Bắc, quy định một số vấn đề cụ thể về tổ chức và hoạt động của Ngành và quan hệ giữa các ngành Kiểm sát, Công an, Tòa án, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ngành Kiểm sát nhằm giúp cho Ngành thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Được sự phân công của Bác Hồ, tháng 3/1967, đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng đã đến dự Hội nghị tổng kết ngành Kiểm sát. Đồng chí phát biểu chỉ đạo: “Ngành Kiểm sát là một trong những công cụ của Nhà nước dân chủ nhân dân, có nhiệm vụ thường xuyên kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân, tăng cường chuyên chính đối với bọn phản cách mạng, tăng cường kỷ luật xã hội trong quần chúng nhân dân… Cần chú trọng trước hết kiểm tra việc tuân theo pháp luật của các cơ quan Nhà nước. Bởi vì, sự vi phạm của của một số công dân nào đó đối với pháp luật có lẽ sẽ không tai hại bằng những sự lạm quyền của các cơ quan chính quyền… Nếu những người này làm sai pháp luật thì chẳng những vi phạm các quyền tự do, dân chủ của nhân dân, mà còn làm trái chủ trương, chính sách là sinh mạng của Đảng, là linh hồn của pháp luật”.
Tháng 7/1967, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang diễn ra ác liệt, đồng chí Trường Chinh, thay mặt Bác Hồ phát biểu với ngành Kiểm sát: “Không có cơ quan Nhà nước nào có thể thay thế ngành Kiểm sát nhân dân để sử dụng quyền công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hay không, có đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước hay không, điều đó chính là Viện kiểm sát phải trông nom, bảo đảm làm tốt”.
Như vậy, Đảng, Bác Hồ rất quan tâm đến hoạt động của ngành Kiểm sát và luôn có những chỉ đạo, cải cách sao cho chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát được thực hiện nghiêm chỉnh, thống nhất.
Phóng viên: Ông có thể cho biết sự quan tâm của Bác Hồ và Trung ương trong việc xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp?
TS. Dương Thanh Biểu:
Bác Hồ là người thầy mẫu mực, luôn quan tâm đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nói chung trong đó có đội ngũ cán bộ tư pháp. Trong thư gửi Hội nghị công tác tư pháp tháng 2/1948, Người viết: “Cán bộ tư pháp phải tuyệt đối trung thành”, “các bạn là những người phụ trách thi hành luật pháp, lẽ tất nhiên các bạn phải nêu cao tấm gương “phụng công thủ pháp, chí công vô tư” cho nhân dân noi theo”.
Tại Hội nghị Tư pháp toàn quốc năm 1950, Người nhấn mạnh: “… Pháp luật của ta hiện nay bảo vệ quyền lợi cho hàng triệu người lao động… Pháp luật của ta là pháp luật thật sự dân chủ, vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động... Người nào sử dụng quyền tự do quá mức của mình mà phạm đến tự do của người khác là phạm pháp”… “... Phải cố gắng làm cho luật pháp dân chủ ngày càng nhiều hơn, tốt hơn... Phải gần dân, hiểu dân, giúp dân, học dân. Giúp dân, học dân để giúp mình thêm liêm khiết, thêm công bằng. Thêm nữa là phải luôn luôn cố gắng học tập lý luận, học tập đường lối chính sách của Chính phủ… Nghĩ cho cùng, vấn đề tư pháp, cũng như mọi vấn đề khác, là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức. Phải làm sao đóng góp làm cho nước được độc lập, dân được tự do, hạnh phúc, nhân loại khỏi đau khổ”. Bài phát biểu của Người đã khiến các cán bộ học viên vô cùng xúc động, đồng thời nhận thức sâu sắc trách nhiệm của ngành Tư pháp trước Nhân dân, trước dân tộc và cuộc kháng chiến.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc xây dựng hệ thống các cơ quan tư pháp là cơ sở để xã hội phát triển. Người từng nói: Tư pháp có tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt người dân mới có được hệ thống pháp luật bảo vệ, có được ánh sáng của Đảng dìu dắt. Song song với đó là phải kiên quyết đấu tranh xử lý tội phạm, đấu tranh chống những hành vi xâm hại đến danh dự, uy tín của Đảng, của Nhà nước.
Sau hòa bình lập lại, ngày 22/3/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp đến dự và nói chuyện với Hội nghị Tư pháp toàn quốc lần thứ 10. Bác nói: Cán bộ Tòa án, Công tố cần góp phần thực hiện đúng đắn nền pháp chế XHCN của nước ta, bảo vệ chế độ dân chủ Nhân dân, quyền lợi của Nhân dân; đồng thời phải ngăn ngừa, trừng trị những kẻ âm mưu phá hoại chế độ, phá hoại lợi ích của Nhân dân, phá hoại công cuộc đấu tranh thống nhất Tổ quốc... Ngành tư pháp muốn khắc phục khó khăn phải đoàn kết nhất trí thực sự, muốn đoàn kết thực sự phải dựa trên cơ sở lập trường vững vàng, tư tưởng sáng suốt, nội bộ dân chủ, phải giúp đỡ nhau học tập tiến bộ, thật thà phê bình, tự phê bình. Ðoàn kết sẽ giúp sức mạnh tập thể được nhân lên, giúp các cá nhân vượt qua mọi khó khăn, có sức mạnh đoàn kết thì việc khó mấy cũng vượt qua được. Người còn chỉ rõ, ngành Tòa án muốn làm tốt cần phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính quyền, với các cơ quan tư pháp khác để hoàn thành nhiệm vụ của Ðảng và Nhân dân giao.
Phóng viên: Đối với ngành KSND, ngay từ những ngày đầu thành lập, Bác Hồ luôn dành sự quan tâm đặc biệt, đồng thời có những chỉ đạo quan trọng đối với Ngành. Là một cán bộ từng công tác lâu năm trong ngành KSND, ông suy nghĩ như thế nào về nội dung này?
TS. Dương Thanh Biểu:
Cả cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng xây dựng bộ máy các cơ quan tư pháp và xác định đây là cơ quan trọng yếu của chính quyền. Ðối với thiết chế Viện Công tố, sau này là VKSND, Bác đã có chỉ đạo rất sâu sát và toàn diện từ việc hoàn thiện mô hình tổ chức, cử nhân sự lãnh đạo cho Ngành, đến việc đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với cán bộ kiểm sát.
Như phần trên đã đề cập, từ năm 1959, cách mạng nước ta bước vào giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở miền Bắc, tiếp thu tư tưởng vĩ đại của Lê-nin, với cương vị Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo thiết lập một hệ thống cơ quan mới trong bộ máy nhà nước XHCN - đó là VKSND, nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Sự quan tâm, chăm lo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với ngành KSND thể hiện ở 10 chữ vàng mà Bác Hồ tặng cho cán bộ kiểm sát: Cán bộ kiểm sát phải "công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”. Thực hiện lời Bác dạy trên, 60 năm qua, các thế hệ cán bộ kiểm sát đã không ngừng học tập, nâng cao trình độ, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, nỗ lực phấn đấu, vượt qua khó khăn, thử thách, hoàn thành trọng trách mà Ðảng và Nhân dân giao phó. Thực hiện tốt lời dạy của Bác chính là góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng của cải cách tư pháp “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ Nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa...”.
Trong những ngày đầu thành lập ngành Kiểm sát, Bác đã cử đồng chí Hoàng Quốc Việt, nguyên Thường vụ Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam sang đảm nhận nhiệm vụ Viện trưởng VKSND tối cao. Đồng chí Hoàng Quốc Việt không chỉ là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo tài năng của Ðảng mà còn là người có rất nhiều kinh nghiệm trong công tác vận động quần chúng. Đồng thời, Bác Hồ đích thân giới thiệu những cán bộ cấp cao của Đảng sang đảm nhận Phó Viện trưởng VKSND tối cao. Đó là đồng chí Đại tá, nguyên Cục trưởng Cục Tình báo Trần Hiệu, người đã lập nhiều chiến công lớn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp; đồng chí Trần Công Tường, một chuyên gia, luật sư nổi tiếng, nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp sang làm Phó Viện trưởng VKSND tối cao. Như vậy, ngay từ đầu thành lập ngành Kiểm sát, đồng chí Trần Hiệu và đồng chí Trần Công Tường là những trợ thủ đắc lực của đồng chí Viện trưởng Hoàng Quốc Việt. Ðây là sự quan tâm đặc biệt của Ðảng và Bác Hồ đối với ngành Kiểm sát nhân dân.
Ðảm nhận trọng trách do Trung ương Ðảng và Bác Hồ giao, trong suốt 16 năm liền giữ chức vụ Viện trưởng VKSND tối cao, đồng chí Hoàng Quốc Việt đã cùng tập thể lãnh đạo của Ngành đề ra những chủ trương, định hướng, biện pháp công tác hết sức đúng đắn, có ý nghĩa quyết định đối với chất lượng, hiệu quả công tác kiểm sát. Những chủ trương công tác và biện pháp chỉ đạo của đồng chí Hoàng Quốc Việt đối với ngành KSND không chỉ đúng trong giai đoạn những năm 60 và đầu những năm 70 của thế kỷ XX mà còn nguyên giá trị đối với công cuộc cải cách tư pháp, đổi mới ngành KSND trong giai đoạn hiện nay. Cho đến hiện tại, các thế hệ kiểm sát vẫn nhớ những lời dặn của đồng chí Hoàng Quốc Việt: “Công tác Kiểm sát thực chất là công tác chính trị”. Nghĩa là, ngành Kiểm sát luôn luôn bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước để làm căn cứ tiến hành. “Cán bộ Kiểm sát phải trong sáng như pha lê”, nghĩa là, bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, người cán bộ Kiểm sát phải luôn tu dưỡng, rèn luyện đạo đức tác phong, giữ vững và phát huy bản lĩnh người cán bộ Kiểm sát trong công tác đấu tranh phòng chống vi phạm và tội phạm.
Chúng ta, thế hệ hôm nay có thể tự hào khẳng định, chặng đường 60 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Quốc hội, sự phối hợp của Chính phủ, MTTQ Việt Nam, các cấp, các ngành, sự ủng hộ của Nhân dân, ngành KSND đã không ngừng nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc chức năng, nhiệm vụ được giao, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước. Ngành đã vinh dự hai lần được Đảng và Nhà nước tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh vào năm 1985 và năm 1990; được tặng thưởng Huân chương Sao vàng năm 2010; được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất năm 2015. Nhiều đơn vị, tập thể, cá nhân trong Ngành đã được Đảng, Nhà nước và ngành KSND tặng thưởng những danh hiệu, phần thưởng cao quý. Những phần thưởng cao quý trên sẽ tiếp thêm động lực để ngành KSND nỗ lực, cố gắng để đạt được nhiều thành tích to lớn hơn nữa trong giai đoạn mới.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này.