Bên dòng Trà Bương (kỳ 1)

Hồ chứa nước Phú Xuân không chỉ cung cấp nước tưới mà còn cung cấp cá, cua… Ảnh: MẠNH HOÀI NAM

Sông Trà Bương hợp nguồn từ suối Sổ, suối Dĩ và suối Cheo Reo thuộc xã Sơn Hội (huyện Sơn Hòa) chảy qua 2 xã Xuân Phước, Xuân Quang 3 (huyện Đồng Xuân) rồi nhập vào sông Kỳ Lộ đổ ra biển.

Gần 30 năm trước, khi qua địa phận xã Xuân Phước, sông Trà Bương bị chặn dòng tạo thành hồ chứa nước Phú Xuân, mỗi vụ tưới 450ha lúa và hàng chục héc ta đậu phộng, bắp, bầu bí, cỏ chăn nuôi… Từ ngày có nước tưới của hồ Phú Xuân, vùng đất này không chỉ đủ lương thực tự cung tự cấp mà còn dôi dư, đời sống người dân ngày càng phát triển...

Kỳ 1: Trả sông về lại cho sông

Trước đây vào mùa khô, sông Trà Bương nước cạn nên dòng chảy đứt quãng, không hòa nhập được vào sông Kỳ Lộ để ra biển.

Đủ nước quanh năm

Từ khi hồ Phú Xuân tích nước, đồng ruộng nơi đây có nước tưới quanh năm, ruộng lúa xanh tốt. Nước thừa theo mương rút lại đổ ra sông. Được tiếp nước từ dòng Trà Bương quanh năm, bà con nông dân còn tận dụng những mảnh đất bỏ hoang trồng cỏ chăn nuôi bò. Đang dùng máy bơm bơm nước tưới cỏ voi trồng ven sông, ông Phạm Văn Tuấn ở thôn Phú Xuân A, xã Xuân Phước tâm sự: Đây là mảnh đất do địa hình ngăn bờ chỉ còn lại góc nhỏ để trồng cỏ nuôi bò. Trước đây, tôi phải mất cả buổi ra ngồi trên bờ ruộng để nạo cỏ mang về cho bò. Từ khi có đám đất đầu thừa đuôi thẹo này, chỉ cần 30 phút, tôi đã cắt cỏ đầy giỏ, đủ cho bò ăn. Đất ven sông khô nước bỏ hoang. Dòng Trà Bương nước chảy quanh năm thuận lợi đủ chuyện, ngoài trồng cỏ, bà con còn trồng hoa màu...

Ông Tuấn nhớ lại, hồi chưa có hồ Phú Xuân, mùa hè dòng sông trơ đáy, người chăn vịt tối trải tấm bạt ra bãi cát giữa sông nằm ngủ. Dọc theo chiều dài dòng Trà Bương chỉ có vực Bàu Sơn, vực Đồng Thành, vực Bà Chẩn nước còn đóng vũng. Lúc đó muốn tưới đám bắp phun râu, đám dưa ra nụ phải vét giếng giữa dòng sông rồi khiêng máy bơm ra hút nước. Thời đó, nhà giàu có mới mua nổi máy F10 là dòng máy do Nhật Bản sản xuất chạy bằng động cơ diesel, nặng trên 1 tạ. Sáng khiêng ra sông hút nước bơm tưới rồi chiều khiêng về, nếu để máy ngoài sông, ban đêm rất dễ bị kẻ gian tháo trộm con heo dầu (đây là bộ phận phun nhiên liệu vào buồng đốt, được ví như trái tim của động cơ máy F). Bây giờ, sông lúc nào cũng có nước chảy, chiều đi lột keo về, dùng máy bơm loại nhỏ, chỉ xách một tay, ra đặt ống dưới sông bơm tưới 5-10 phút là tràn bờ.

Nước từ hồ Phú Xuân chảy theo kênh mương N2 dẫn nước tưới cánh đồng thôn Phú Xuân A, Phú Xuân B, Phước Hòa (xã Xuân Phước) và thôn Phước Nhuận, Phước Lộc (xã Xuân Quang 3). Còn kênh mương N1 dẫn nước tưới cánh đồng thôn Thạnh Đức và một phần cánh đồng thôn Phú Xuân A. Bà Nguyễn Thị Hương 62 tuổi, ở thôn Phú Xuân B, nhớ lại: Hồi hồ Phú Xuân chưa ngăn dòng, ruộng ở quê hứng nước trời một năm chỉ sản xuất một vụ lúa. Chờ mỗi khi cơn mưa đầu mùa ập xuống, mọi người trong xóm ra đồng be bờ hứng nước cày ải vào vụ lúa mới. “Gia đình tôi không có bò, phải chờ người ta cày xong mới thuê họ cày, sạ muộn. Cuối vụ, ruộng xung quanh chín thu hoạch xong, ruộng nhà tôi còn xanh. Sau vụ lúa, ai thuê gì tôi làm nấy kiếm tiền chạy gạo ăn từng bữa. Từ ngày Nhà nước đầu tư xây dựng hồ chứa nước Phú Xuân, ruộng một năm sản xuất hai vụ lúa. Không chỉ đủ ăn mà gạo còn dư bán lấy tiền trang trải cuộc sống”, bà Hương nói.

Còn ông Nguyễn Văn Trung, một người dân ở thôn Phước Nhuận nhớ như in: Hồi cánh đồng trước xóm nhà còn hứng nước trời, chờ mưa xuống ướt đất là móc bò cày. Đất cục bứng lên từng giề to bằng cái thúng. Bừa bằng bò không chà nát nổi giề đất nên phải có người đi theo sau phụ đập cho nhỏ ra, để khi gieo lúa, đất cục không đè hạt giống lúc nảy mầm. Một năm gieo một vụ lúa, giống lúa dài ngày, 6 tháng mới chín đỏ đuôi. Có năm lúc trổ đòng gặp nắng hạn, gié ngắn ngủn, hạt lúa lừng không no gạo, cắt 2 sào ruộng (1.000m2), sạ hết 1 giạ giống không được 8 bao cột túm miệng, tương đương 40 tạ/ha. Khi có hồ Phú Xuân thay trời làm mưa, nông dân dùng máy cày rồi bừa kéo láng ruộng để sạ, lúa lên đều và xanh tốt, cho năng suất cao.

Cũng theo ông Trung, thời gian đầu vận hành hồ Phú Xuân, bà con cày ruộng bằng máy cày tay, rồi me cái cuốc, bỏ ra cả ngày chải bờ, cuốc góc. Gần đây, máy cày chảo cày sát bờ sát góc, bà con không phải mất nhiều công. Trước đây thường xúc lúa bồ, lúa thịt làm giống, thì nay trên cánh đồng, nông dân sạ lúa giống siêu nguyên chủng, khi gié lúa cúi, chín sát cậy, hạt to bóng mẩy, thu hoạch đạt trên dưới 70 tạ/ha. Không những thế, bà con còn sử dụng thiết bị không người lái phun thuốc bảo vệ thực vật, không phải đeo bình bơm sau lưng, gây hại cho sức khỏe như trước.

Cánh đồng lúa xã Xuân Quang 3, tưới nước tự chảy từ hồ Phú Xuân. Ảnh: MẠNH HOÀI NAM

Cánh đồng lúa xã Xuân Quang 3, tưới nước tự chảy từ hồ Phú Xuân. Ảnh: MẠNH HOÀI NAM

Mùa đậu phộng bên sông

Nếu ai có dịp đi qua cầu Sông Trà Bương nối thôn Phước Lộc và Thạnh Đức (xã Xuân Quang 3) trong nắng tháng 3 âm lịch, sẽ bắt gặp hình ảnh người dân địa phương thu hoạch đậu phộng.

Sông Trà Bương khi chảy qua xã Xuân Quang 3, hai bên bờ, mùa mưa phù sa bồi đắp thành những triền soi gần bờ, người dân quanh vùng trồng đậu phộng. Đến mùa thu hoạch, sáng sớm ông Phan Văn Ẩn ở đội 8 (thôn Thạnh Đức) ra soi khom lưng nhổ đậu. Đến nửa buổi, ông ra gần bờ sông chặt chà tre khô, rồi chặt thêm nhánh cây táo nhơn, chà duối kéo vào chỗ đám đậu phộng. Ông dùng rựa dạt gốc các nhánh cây cho nhọn rồi cắm dựng đứng thành vòng tròn nhỏ hơn nong tre, phía trên túm lại. Ông lấy tấm bạt nhỏ phủ lên thành cái chòi rồi ôm đậu phộng nhổ chất đống ngoài đám vô trong chòi ngồi lặt từng củ để tránh nắng. Gần trưa, bờ sông gió thổi mạnh, ông Ấn phủ thêm cho mái chòi mớ dây đậu phộng đã lặt củ, giữ tấm bạt không bị gió hất tung.

Ông Ẩn nói về bí quyết để đậu phộng sai củ. Ngoài bón phân, khi cuốc cỏ xới đất, có người sợ đứt rễ nên chừa lại lớp đất cứng dẽ chặt quanh gốc nên đậu phộng ít sai. Cho nên cần phải xới đất cho thật xốp, không còn lớp đất cứng bó chặt quanh gốc, để khi đậu phộng đâm tia chui lọt xuống đất ra củ sai. Đất phù sa lại có nước tưới bơm từ sông lên, nông dân ở đây trồng đậu phộng giống cao sản, phân cành nhiều, khi nhổ lên, phần củ to bằng cái chén ăn cơm. Năng suất trung bình đạt 50 tạ/ha, lợi nhuận trên 10 triệu đồng/ha.

Còn bà Trần Thị Được, cũng ở đội 8, ngồi một mình trong chòi lặt đậu phộng chia sẻ: Trước đây, tôi trồng giống đậu sẻ, trồng xong khoán trắng cho trời. Năm nào thuận mưa thì có nhổ, còn gặp nắng hạn đậu phộng chết ẻo, khô héo ngoài ruộng, trắng tay. Bây giờ trồng đậu phộng giống mới, có nước bơm tưới, năng suất cao.

Dọc triền soi, chòi đậu phộng nối dài. Mỗi chòi có 2-3 người ngồi tránh nắng, lặt củ, chuyện trò rôm rả. Có nhà đơn chiếc thì trong chòi chỉ có một người. Đứng trên cầu Sông Trà Bương, ngắm những chòi đậu phộng, ông Trương Văn Bắc ở xã Xuân Sơn Bắc (huyện Đồng Xuân), tâm sự: Tôi qua đây đúng dịp thu hoạch đậu phộng. Những mái chòi ven sông làm tôi thổn thức, nhìn say sưa. Trước đây ở quê tôi cũng có cảnh này, nay không còn. Lâu lắm nhìn lại hình ảnh này thật là yên bình.

Kỳ 2: Nơi có hai núi Một

Thực hiện các nghị quyết, chương trình hành động của Tỉnh ủy, Ban Thường vụ Tỉnh ủy và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Đồng Xuân lần thứ XII, Huyện ủy đề ra nhiệm vụ tập trung nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn. Trong đó, chú trọng việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của huyện, áp dụng KH-CN vào sản xuất nông nghiệp thích ứng với biến đổi khí hậu tại các xã Xuân Phước, Xuân Quang 3 và một số địa phương khác.

Bí thư Huyện ủy Đồng Xuân Hồ Văn Mười

MẠNH HOÀI NAM

Nguồn Phú Yên: http://baophuyen.vn/89/277069/ben-dong-tra-buong-ky-1.html