Cần hơn 310 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư hệ thống cảng biển tới năm 2030

Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 vừa được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 vào khoảng 313 nghìn tỷ đồng.

Theo tin từ Văn phòng Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định 1579/QĐ-TTg, phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Trong quy hoạch 5 chuyên ngành GTVT, lần đầu tiên cảng biển được ưu tiên lựa chọn vị trí. Ảnh minh họa

Mục tiêu đến năm 2030, hệ thống cảng biển sẽ phát triển đồng bộ, hiện đại, dịch vụ chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, an toàn hàng hải và bảo vệ môi trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế,...

Qua đó đáp ứng thông qua lượng hàng hóa từ 1.140 - 1.423 triệu tấn (trong đó hàng container từ 38 đến 47 triệu TEUs) và hành khách từ 10,1 - 10,3 triệu lượt khách.

Nhu cầu vốn đầu tư hệ thống cảng biển đến năm 2030 vào khoảng 313 nghìn tỷ đồng (bao gồm các bến cảng kinh doanh dịch vụ xếp dỡ hàng hóa) sẽ được huy động chủ yếu từ nguồn ngoài ngân sách, vốn doanh nghiệp và các nguồn vốn hợp pháp khác.

Nguồn vốn ngân sách nhà nước chỉ tập trung cho hạ tầng hàng hải công cộng; khu vực trọng điểm, tạo sức lan tỏa và thu hút đầu tư.

Điểm mới tại Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển lần này là bên cạnh hai cảng biển loại đặc biệt là Hải Phòng và Bà Rịa - Vũng Tàu, 4 cảng biển khác cũng được quy hoạch là cảng biển tiềm năng đặc biệt, gồm Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa và Sóc Trăng.

Các dự án kết cấu hạ tầng hàng hải công cộng được xác định ưu tiên đầu tư, gồm nâng cấp tuyến luồng Cái Mép - Thị Vải phục vụ tàu đến 200 nghìn DWT giảm tải (18 nghìn TEUs); dự án luồng cho tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu - giai đoạn 2 cho tàu đến 20 nghìn DWT giảm tải.

Nâng cấp luồng vào cảng Nghi Sơn, sông Chanh, Cẩm Phả, Thọ Quang và các tuyến luồng khác; các đèn biển tại các đảo, quần đảo thuộc chủ quyền Việt Nam, kết cấu hạ tầng phục vụ bảo đảm an toàn hàng hải.

Các bến cảng được ưu tiên đầu tư, gồm các bến tiếp theo thuộc khu bến Lạch Huyện; bến khởi động khu bến Nam Đồ Sơn (Hải Phòng); các bến tại khu Cái Mép - Thị Vải (Bà Rịa - Vũng Tàu).

Các bến cảng chính thuộc cảng biển loại I; các bến cảng quy mô lớn gắn trung tâm điện lực than, khí, xăng dầu, luyện kim; kêu gọi đầu tư các bến cảng tại các cảng biển tiềm năng Vân Phong và Trần Đề.

Theo Quyết định số 1579, hệ thống cảng biển Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 sẽ được phân thành 5 nhóm thay vì 6 nhóm cảng biển như giai đoạn trước.

Nhóm 1 gồm 5 cảng biển: Hải Phòng, Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định và Ninh Bình. Đến năm 2030, hàng hóa thông qua nhóm 1 từ 305 đến 367 triệu tấn (hàng container từ 11 đến 15 triệu TEUs); hành khách từ 162 đến 164 nghìn lượt.

Nhóm 2 gồm 6 cảng biển: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế, đến năm 2030, hàng hóa thông qua đạt từ 172 đến 255 triệu tấn (hàng container từ 0,6 đến 1 triệu TEUs); hành khách từ 202 đến 204 nghìn lượt khách.

Nhóm 3 gồm 8 cảng biển: Đà Nẵng (gồm khu vực huyện đảo Hoàng Sa), Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa (gồm khu vực huyện đảo Trường Sa), Ninh Thuận và Bình Thuận, đến năm 2030 hàng hóa thông qua từ 138 đến 181 triệu tấn (hàng container đạt từ 1,8 đến 2,5 triệu TEUs); hành khách từ 1,9 đến 2 triệu lượt.

Nhóm 4 gồm 5 cảng biển: TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, Bình Dương và Long An, đến năm 2030 hàng hóa thông qua từ 461 đến 540 triệu tấn (hàng container từ 23 đến 28 triệu TEUs); hành khách từ 1,7 đến 1,8 triệu lượt.

Nhóm 5 gồm 12 cảng biển: Cần Thơ, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Bến Tre, An Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh, Cà Mau, Bạc Liêu và Kiên Giang. Đến năm 2030, hàng hóa thông qua từ 64 đến 80 triệu tấn (hàng container từ 0,6 đến 0,8 triệu TEU); hành khách từ 6,1 đến 6,2 triệu lượt.

Trong quy hoạch 5 chuyên ngành GTVT, lần đầu tiên cảng biển được ưu tiên lựa chọn vị trí. Các phương thức khác (đường thủy nội địa, đường bộ, đường sắt) tùy thuộc vào lượng hàng hóa thông qua, cự ly, điều kiện tự nhiên và khả năng huy động nguồn lực sẽ được ưu tiên kết nối với vai trò gom, giải tỏa hàng hóa cho cảng biển.

Một điểm mới nữa là quy hoạch lần này đưa các nội dung của Bộ luật Hàng hải Việt Nam 2015 vào thực tiễn, hoạch định rõ vai trò cũng như định hướng phát triển hệ thống cảng cạn (ICD) tại các chân hàng nằm sâu trong lục địa như “cánh tay nối dài” của hệ thống cảng biển.

Thế Anh

Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/can-hon-310-nghin-ty-dong-von-dau-tu-he-thong-cang-bien-toi-nam-2030-post157702.html