Chủ quyền nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân xuyên suốt trong tư duy lý luận và quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng nhà nước, từ nhà nước dân chủ nhân dân, rồi nhà nước chuyên chính vô sản và hiện nay là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cốt lõi trong quan điểm về chủ quyền nhân dân là tư tưởng chính quyền thuộc về nhân dân.
Chủ quyền nhân dân – giá trị cốt lõi của Nhà nước pháp quyền nói chung, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói riêng
Quan niệm của nhân loại về chủ quyền của nhân dân
Trong tác phẩm “Khảo luận thứ hai về Chính phủ”, nhà tư tưởng Anh Jonh Locke (1632-1704) cho rằng: “Nhà nước được hình thành dựa trên sự đồng thuận của người dân. Những hoạt động do nhà nước tiến hành nhưng không có sự đồng thuận của dân chúng sẽ bị coi là bất hợp pháp, là hành vi không có thẩm quyền”. Tư tưởng này tiếp tục được phát triển bởi các nhà tư tưởng như J.j. Rouseau; Ch. Montesquyieu. Đặc biệt, Montesquyieu đã gắn Hiến pháp vào tư tưởng chủ quyền nhân dân coi Hiến pháp là sự thể hiện ý chí gốc rễ của nhân dân. Sau đó, tư tưởng này đã được đưa vào tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ (1776) và tuyên ngôn về quyền con người và quyền công dân của nước Pháp (1789) với quan niệm chung là Chính phủ được thành lập trong số những người dân và quyền hạn của Chính phủ bắt nguồn từ sự đồng thuận của những người chịu sự kiểm soát của Chính phủ.
Ngày nay “Chủ quyền nhân dân” đã trở thành một trong những giá trị phổ quát của nhân loại về nhà nước pháp quyền với quan niệm chủ quyền nhân dân cao hơn quyền lực nhà nước; quyền lực nhà nước được phái sinh từ quyền lực của nhân dân, do nhân dân giao quyền, ủy quyền có giới hạn và phải chịu sự kiểm soát của nhân dân. Hay nói cách khác, nhân dân là nguồn gốc của quyền lực nhà nước, có trước, khách quan và độc lập với quyền lực nhà nước. Chính vì thế, chủ quyền nhân dân là nguồn gốc của tính chính danh, tính hợp pháp của nhà nước. Nhà nước và quyền lực của nhà nước có được là dựa trên sự đồng thuận của nhân dân, thông qua việc nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến (quyền phúc quyết Hiến pháp và quyền tài phán vi phạm Hiến pháp) và nhân dân trực tiếp thực hiện quyền bầu cử và bãi miễn những người thay mặt mình nắm giữ quyền lực nhà nước. Vì thế, quyền lập hiến và quyền bầu cử là hai quyền cơ bản thể hiện chủ quyền của nhân dân trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước.
Ngoài một phần cơ bản quyền lực nhân dân ủy thác cho nhà nước, phần còn lại nhân dân tự thực hiện và giữ vai trò kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Vai trò của quyền lực nhân dân trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước và với xã hội thể hiện trên các mặt cơ bản sau đây:
+ Nhân dân quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia theo quy định của Hiến pháp và Luật (như: Luật Trưng cầu dân ý).
+ Nhân dân tham gia xây dựng nhà nước thông qua việc thực hiện các quyền dân chủ hiến định như: bầu cử, ứng cử, khiếu nại, tố cáo, tham gia quản trị quốc gia.
+ Nhân dân tuân thủ, ủng hộ và bảo vệ quyền lực nhà nước thông qua việc chấp hành Hiến pháp, pháp luật và chính sách của nhà nước, đấu tranh phòng chống các thế lực đi ngược lại chuẩn mực pháp luật của nhà nước.
+ Nhân dân tham gia kiểm soát, giám sát quyền lực nhà nước bằng việc thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp được Hiến pháp và Luật quy định hoặc thông qua các Tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của mình.
+ Nhân dân tự quản, tự chủ những vấn đề thuộc đời sống của cá nhân và xã hội, không có sự can thiệp của quyền lực nhà nước trong những lĩnh vực do pháp luật quy định.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ quyền nhân dân
Theo học thuyết Mác-Lênin, cội nguồn sâu xa của quyền lực nhà nước chính là quyền lực nhân dân. Nhà nước không có chủ quyền mà chỉ có nhân dân mới có chủ quyền. Chủ quyền nhân dân được xem là bản chất và là trụ cột của việc tổ chức và vận hành xã hội hiện đại. Không phải quyền lực nhà nước mà quyền lực nhân dân mới là quyền lực tối cao. Là bộ phận cơ bản của quyền lực nhà nước, nhà nước được hình thành thông qua sự đồng thuận, ủy quyền của nhân dân. Vì thế chủ quyền nhân dân là gốc của quyền lực nhà nước; không đồng nhất với quyền lực nhà nước mà quyền lực nhà nước phái sinh từ quyền lực nhân dân. Quyền lực nhân dân quyết định phạm vi, mục đích, cách thức sử dụng quyền lực nhà nước, vì vậy quyền lực nhà nước chịu sự kiểm soát của quyền lực nhân dân.
Quyền bầu cử là một trong những quyền cơ bản thể hiện chủ quyền của nhân dân trong mối quan hệ với quyền lực nhà nước. Ảnh Minh họa
Chủ quyền nhân dân theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta
Người đầu tiên ở nước ta nhận thức một cách sâu sắc và thực hiện một cách nhất quán, xuyên suốt tư tưởng về chủ quyền nhân dân trong xây dựng nhà nước kiểu mới – nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở nước ta là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng nhà nước kiểu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc chung cho dân chứ “không phải để đè đầu dân”. “Dân làm chủ thì Chủ tịch, Bộ trưởng, Thủ tướng, Ủy viên này khác là làm gì? Làm đầy tớ cho dân, chứ không phải làm quan cách mạng”. Do đó, mục đích xây dựng nước Việt Nam không chỉ độc lập mà còn tự do, hạnh phúc và dân chủ cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng là người đầu tiên đặt nền móng cho hình thức dân chủ trực tiếp ở nước ta. Hiến pháp năm 1946 do Người làm trưởng ban soạn thảo đã quy định: “Nhân dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia” (Điều 21) và “Những điều thay đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì phải đưa ra toàn dân phúc quyết” (Khoản e, Điều 70 Hiến pháp năm 1946).
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền nhân dân xuyên suốt trong tư duy lý luận và quan điểm, đường lối của Đảng ta về xây dựng nhà nước, từ nhà nước dân chủ nhân dân, rồi nhà nước chuyên chính vô sản và hiện nay là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cốt lõi trong quan điểm về chủ quyền nhân dân là tư tưởng chính quyền thuộc về nhân dân.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước trong điều kiện mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1-1994), Đảng ta đề ra chủ trương “Xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân và vì dân”. Mô hình tổng thể nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta xây dựng là “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”. Thể chế hóa quan điểm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng, Hiến pháp năm 2013 tại Điều 2 khẳng định: (1) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; (2) Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức.
Kết quả, hạn chế về nhận thức và thực hiện chủ quyền nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Kết quả về nhận thức và tổ chức thực hiện
Kết quả về nhận thức:
Quan điểm, nhận thức của Đảng về chủ quyền nhân dân, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, vai trò chủ thể của nhân dân ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và phát triển trong quá trình thực hiện chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Từ chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền thực sự của dân, do dân, vì dân ở Đại hội Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1994) đến Hội nghị Trung ương ở khóa VII chuyên đề bàn về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính” (1/1995) đã đề ra 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước, trong đó quan điểm đầu tiên là: “Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực sự của dân, do dân, vì dân, lấy liên mình giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp tri thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội”.
Các Đại hội VIII, IX tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa bảo đảm “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân”, bảo đảm “Nguyên tắc tất cả quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân”. Làm rõ hơn nhận thức về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân và bắt đầu chú trọng tới vấn đề kiểm soát quyền lực nhà nước trong đó có giám sát quyền lực nhà nước của nhân dân.
Đại hội X và XI của Đảng tiếp tục làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là các Đại hội có bước phát triển về nhận thức. Văn kiện Đại hội X trong mục tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đã đề cập tới vấn đề: “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”, trong đó đã đề cập sâu đến vấn đề: “Xây dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Có thể nói, đây là một bước nhận thức mới về đề cao chủ quyền của nhân dân. Văn kiện Đại hội XI, đặc biệt là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (bổ sung và phát triển năm 2011) đã bổ sung vào nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa một nội dung mới, đó là kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là một bước đột phá về nhận thức trong việc đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong giới hạn mà nhân dân giao cho, phải được kiểm soát và hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền.
Đại hội XII (1/2016) kiên định quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong giai đoạn mới với một nhận thức mới cao hơn, đó là “Nhà nước phải tuân thủ các nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động”, trong đó nguyên tắc pháp quyền đầu tiên là “Tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Đại hội XIII của Đảng đã định hướng giai đoạn 2021-2030 là “Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của nhà nước và cán bộ công chức, viên chức”. Theo đó, khi đề cập tới việc xây dựng và hoàn thiện từng thiết chế cấu thành bộ máy nhà nước, đòi hỏi phải thực sự của dân, do dân, vì dân, phục vụ nhân dân; phải thể hiện sâu sắc quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân trong hoạt động lập pháp, xây dựng nền hành chính, nền tư pháp. Đại hội lần thứ XIII của Đảng còn chỉ rõ: “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ cơ sở dựa trên phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phương châm này thể hiện một bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về phát huy dân chủ và các giá trị đích thực của dân chủ. “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong Chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ tổ quốc”; “Phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là nhân tố trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất là mục tiêu của sự phát triển”. Có thể nói, từ tư duy xây dựng nhà nước theo mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa sang tư duy xây dựng nhà nước theo mô hình nhà nước pháp quyền có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là một bước đổi mới mạnh mẽ về tư duy lý luận, lại vừa kế thừa, phát triển tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi xướng và lãnh đạo, vừa tiếp thu các giá trị phổ quát của nhân loại về đề cao chủ quyền nhân dân, vừa thể hiện bản sắc và đặc điểm riêng có về truyền thống của dân tộc ta.
Kết quả về tổ chức thực hiện:
Cùng với các quan điểm, nhận thức mới về chủ quyền nhân dân trong đường lối xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Đảng, việc tổ chức thực hiện trong thực tế cũng ngày càng được đổi mới và tăng cường.
- Trước hết, Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa các quan điểm của Đảng về đề cao chủ quyền nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân, vì dân. Từ chỗ Hiến pháp không quy định nhân dân là chủ thể của quyền lập hiến (Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992) đến việc ghi nhận “Nhân dân Việt Nam xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này” (lời nói đầu Hiến pháp năm 2013). Từ chỗ chưa hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp đến chỗ tuy chưa thật đầy đủ nhưng đã hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp theo Luật định (Khoản 2 Điều 119 Hiến pháp năm 2013) để tiến tới hình thành cơ chế bảo vệ Hiến pháp độc lập, chuyên trách khi có điều kiện. Từ chỗ nhân dân chỉ thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân đến chỗ thừa nhận nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua các cơ quan đại biểu của nhân dân và các cơ quan nhà nước khác mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6 Hiến pháp năm 2013).
- Từ chỗ đồng nhất quyền con người với quyền công dân trong Hiến pháp năm 1980 đến thừa nhận quyền con người nhưng chưa phân biệt quyền con người với quyền công dân trong Hiến pháp năm 1992, đến quy định đầy đủ và rõ ràng hơn với nguyên tắc hiến định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” (Khoản 1 Điều 14). Từ chỗ chỉ khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội” (Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992) đến chỗ không những khẳng định vị trí và vai trò lãnh đạo, mà còn nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng là “Phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình” (Điều 4 Hiến pháp năm 2013).
- Nhiều quyền mới của con người, của công dân được Hiến pháp ghi nhận như: “Quyền được sinh sống trong môi trường trong lành” (Điều 43), “Quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa” (Điều 41); “Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội” (Điều 34); “Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ” (Khoản 2, Điều 32),… Tất cả điều đó là thành quả đáng ghi nhận về việc thể chế hóa chủ quyền nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
- Đã hình thành cơ chế kiểm soát của nhân dân đối với quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo và quyền lực nhà nước bằng giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (Điều 9 Hiến pháp năm 2013 và Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015). Cơ chế kiểm soát quyền lực này đã được vận hành trong thực tiễn và thu được những kết quả ban đầu.
- Dân chủ cơ sở được đề cao và phát huy trong thực tiễn.
- Một số quyền dân chủ trực tiếp đã được thể chế như Luật Trưng cầu ý dân năm 2015; Luật Tín ngưỡng tôn giáo năm 2016; Luật Khiếu nại, Tố cáo (sửa đổi); Luật Tiếp cận thông tin và các bộ Luật Hình sự, Bộ Luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Dân sự, Bộ Luật Tố tụng dân sự được sửa đổi, bổ sung với nhiều tư duy pháp lý mới đề cao nhân tố con người, quyền con người, quyền công dân.
Tồn tại, hạn chế
Một là, xã hội nói chung, các cơ quan, tổ chức và công dân nói riêng chưa có nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vai trò chủ thể, chủ quyền nhân dân của mình trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Hai là, quyền lập hiến là quyền thể hiện một cách trọn vẹn nhất chủ quyền thuộc về nhân dân. Gần 80 năm ra đời nhà nước Dân chủ nhân dân, trong đó có 30 năm xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng đến nay nhân dân ta chưa thực hiện quyền phúc quyết Hiến pháp và chưa có cơ chế tài phán Hiến pháp độc lập, chuyên trách của mình khi quyền lực nhà nước vi phạm Hiến pháp, xâm hại đến quyền hiến định của mình.
Ba là, dân chủ trực tiếp chưa được nhận thức đầy đủ; một số quyền dân chủ hiến định chưa được thể chế hóa như quyền hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25 Hiến pháp); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28). Quyền bầu cử và bãi miễn đại biểu dân cử chậm được đổi mới, chưa hình thành cơ chế pháp lý để nhân dân thực hiện quyền bãi miễn đại biểu dân cử do mình bầu ra.
Bốn là, cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo và quyền lực nhà nước chưa hoàn thiện và vận hành một cách hiệu quả. Giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc các cấp chưa được coi trọng đúng mức và chưa có đầy đủ các quy định pháp lý để nâng cao hiệu lực và hiệu quả kiểm soát quyền lực của nhà nước.
Năm là, xã hội nói chung, công dân nói riêng chưa có ý thức thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, chưa hình thành xã hội pháp quyền.
Nguyên nhân của những kết quả và hạn chế
Nguyên nhân của những kết quả đạt được
Trước hết, Đảng đã kịp thời đưa ra chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần để tạo ra tiền đề kinh tế - xã hội chuyển nhà nước từ mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa sang xây dựng và hoàn thiện nhà nước theo mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đề cao nguyên tắc chủ quyền nhân dân trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Hai là, dân chủ, dân trí và mở cửa hội nhập ngày càng sâu rộng là những điều kiện khách quan làm cho chủ quyền của nhân dân ngày càng được đề cao và hoàn thiện ở nước ta.
Nguyên nhân của những hạn chế, tồn tại
Chủ quyền nhân dân là vấn đề chính trị - pháp lý quan trọng hàng đầu trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhưng là vấn đề chính trị - pháp lý rất nhạy cảm. Vì thế, khi đề ra những vấn đề mới như: phúc quyết Hiến pháp, cơ chế bảo hiến chuyên trách,… thường bị những tư duy truyền thống níu kéo, hoặc bằng các lập luận “để giữ ổn định”, “không phù hợp với hệ thống chính trị của nước ta” hoặc “còn nhiều ý kiến khác nhau” để khước từ một cách dễ dãi mà không được phân tích một cách thấu đáo, kỹ càng. Vì thế, những tư duy chính trị - pháp lý mới chậm được thể chế hóa thành pháp luật.
Hai là, tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta trong nhiều năm theo mô hình tập quyền xã hội chủ nghĩa với quyền lực nhà nước tập trung vào Quốc hội. Vì thế khi chuyển sang mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, với quyền lực nhà nước được phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, một số người vẫn còn chịu ảnh hưởng của tư duy tập quyền nên không khỏi ngần ngại, nhất là thực hiện và tiếp thu những tư duy chính trị - pháp lý mới về đề cao chủ quyền nhân dân, quyền con người, quyền công dân.
Mục tiêu, quan điểm, phương hướng, giải pháp phát huy chủ quyền nhân dân
Mục tiêu:
Nhận thức sâu sắc, thể chế hóa và tổ chức thực hiện đầy đủ quyền chủ quyền của nhân dân trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. “Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân” như Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” đã chỉ rõ.
Quan điểm:
Kiên định vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và đường lối của Đảng ta về phát huy dân chủ, quyền chủ quyền của nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân và vì dân.
“Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta”.
Đề cao chủ quyền nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Phương hướng:
“Thể chế hóa đầy đủ và thực hiện đúng đắn, hiệu quả cơ chế Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở”.
Nhiệm vụ và giải pháp:
Trong điều kiện dân trí ngày càng cao, dân chủ ngày càng mở rộng và tăng cường, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng thì vấn đề chủ quyền nhân dân trong xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực hiện các mục tiêu và phương hướng nói trên, cần tiến hành các nhiệm vụ và giải pháp cơ bản sau đây:
Trước hết, cần tiếp tục nhận thức sâu sắc và đổi mới tư duy về mối quan hệ giữa chủ quyền nhân dân với quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước
Quyền lực chính trị của Đảng lãnh đạo và quyền lực quản lý của nhà nước có được đều bắt nguồn từ quyền lực của nhân dân. Vị thế và quyền uy lãnh đạo của Đảng và quyền lực quản lý của nhà nước có được là từ quyền lực của nhân dân giao cho thông qua quyền lập hiến của mình. Theo đó, quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực của nhà nước được tổ chức và hoạt động trong giới hạn và bị kiểm soát bởi chủ quyền nhân dân tức là bởi các quy định của Hiến pháp. Hiến pháp và pháp luật trở thành phương tiện để nhân dân giới hạn và kiểm soát quyền lực lãnh đạo của Đảng và quyền lực Nhà nước. Vì thế, tiếp tục nâng cao nhận thức về chủ quyền nhân dân để xây dựng cơ sở hiến định và cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ với chủ quyền của nhân dân là tối cao, Nhà nước thực sự là Nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây được xem là một nhiệm vụ quan trọng trong việc đề cao chủ quyền nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Hai là, “bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân”.
Để thực hiện nhiệm vụ này cần tổng kết thực tiễn việc thực hiện và nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật theo hướng phát huy tốt hơn các hình thức dân chủ trực tiếp của Nhân dân, có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của Nhân dân tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước, công khai minh bạch trong việc tiếp nhận, xử lý, giải quyết, phản hồi ý kiến, kiến nghị, phản ánh, khiếu nại, tố cáo của Nhân dân. Đổi mới cơ chế bầu cử để lựa chọn được những người xứng đáng đại diện cho Nhân dân, nghiên cứu việc bỏ phiếu bầu cử của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài.
Ba là, phát huy dân chủ phải đi đôi với tăng cường pháp quyền, đề cao đạo đức xã hội và trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ cương, kỷ luật, đấu tranh cương quyết với những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng dân chủ để xâm phạm lợi ích Nhà nước pháp quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Bốn là, xây dựng ý thức và lối sống thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, hay nói ngắn gọn là xây dựng xã hội pháp quyền
Xã hội pháp quyền là xã hội mà mỗi công dân đều có ý thức tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp và pháp luật trên cơ sở có tình cảm đúng đắn và hành vi tích cực pháp luật đối với Hiến pháp và pháp luật. Sự hình thành và phát triển của xã hội pháp quyền là nhân tố vô cùng quan trọng tác động tích cực đến các hoạt động của Nhà nước pháp quyền, góp phần làm cho nhà nước pháp quyền trong sạch, minh bạch, có trách nhiệm và hiệu quả hơn. Đồng thời cũng là nhân tố thúc đẩy sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người, quyền công dân và tham gia tích cực vào công việc của Nhà nước. Tuy nhiên, để hình thành được xã hội pháp quyền là một quá trình lâu dài đòi hỏi sự kiên trì nhưng không thể không đặt ra để xây dựng ngay từ bây giờ. Để hình thành xã hội pháp quyền thì tổ chức thi hành pháp luật đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Đây được xem là nhiệm vụ thường xuyên và liên tục của toàn bộ hệ thống chính trị của nước ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong đó “nâng cao ý thức trách nhiệm, năng lực của cán bộ, Đảng viên, công chức, viên chức trong thực thi Hiến pháp, pháp luật” là nhân tố đặc biệt quan trọng.
Năm là, tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa kịp thời, đầy đủ quan điểm của Đảng, quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Để phát huy dân chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong mối quan hệ với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải tiếp tục đổi mới một cách cơ bản và thực chất các thể chế sau đây:
Đổi mới một cách căn bản chế độ bầu cử Đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân để bầu cử thực sự trở thành một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân. Theo đó, cần phải hoàn thiện luật bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân theo hướng tăng tính cạnh tranh lành mạnh trong bầu cử và gắn trách nhiệm của đại biểu với cử tri nơi bầu ra mình.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các thể chế về các quyền dân chủ hiến định của nhân dân như quyền hội họp, lập hội, biểu tình (Điều 25) quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28). Có thể nói, do vừa thiếu các quy định pháp lý, vừa không được coi trọng đúng mức trong thực tiễn nên nhân dân tham gia xây dựng nhà nước còn hình thức và ít hiệu quả.
Hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực chính trị của Đảng và quyền lực nhà nước. Đây là cơ chế kiểm soát có vai trò đặc biệt quan trọng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền chỉ có một Đảng cầm quyền như ở nước ta. Cơ chế này đã được vận hành dựa trên các cá nhân công dân thực hiện các quyền dân chủ trực tiếp và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp của mình bằng các hoạt động giám sát và phản biện xã hội. Tuy nhiên, cho đến nay cơ chế này vẫn chưa hoàn thiện do cả nhận thức chưa đầy đủ lẫn thiếu các thể chế pháp lý nên trên thực tế vận hành còn chưa thật sự có hiệu lực và hiệu quả. Vì thế, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân kiểm soát quyền lực vẫn là một nhiệm vụ cấp thiết trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.