Đội quân robot dưới nước tuần tra trên biển
Hải quân Mỹ đang chuyển sang sử dụng các robot mới để thu thập và chia sẻ thông tin, hoạt động dưới bề mặt nước. Chương trình là một phần trong sứ mệnh duy trì thường xuyên hoạt động trên khắp các vùng biển và đảm bảo quyền tự do đi lại trên biển.
Cuối tháng 7-2021, Hải quân Mỹ ký kết hợp đồng thiết kế đội quân robot cảm biến dưới nước trị giá lên tới 39,2 triệu USD với Teledyne Brown Engineering. Về mặt hình thức, chương trình gọi là “tàu lượn cảm ứng không gian vùng ven biển” (Littoral Battlespace Sensing-Glider hay LBS-G).
“Littoral” là “ven biển” - không gian dọc theo các vùng nước chính được con người quan tâm sâu sắc, nơi có nhiều tàu thuyền lưu thông và đặc biệt là nơi có bất kỳ cuộc xâm nhập nào đe dọa hoạt động trên đất liền. “Battlespace” (“Không gian chiến đấu”) là thuật ngữ phức tạp hơn, nhưng về cơ bản nó là cách quân đội hiểu các yếu tố của môi trường - mọi thứ từ thời tiết đến vị trí của phương tiện cho đến nhiễu điện từ xung quanh - có thể định hình cách giao tranh xảy ra. Cuối cùng, “Sensing-Glider” (“cảm biến-lượn”) nắm bắt thiết kế của những robot hình ngư lôi có cánh và chúng tự đẩy giống như những chiếc máy bay dưới bề mặt nước.
Slocum Glider UUV của Hải quân Mỹ.
Các robot được chọn cho chương trình này dựa trên thiết kế tàu lượn Slocum hiện có của Teledyne. Tùy thuộc vào năng lượng pin, tàu lượn Slocum có thể hoạt động trong phạm vi ngắn là 354km trong 15 ngày hoặc tối đa là hơn 12.000km trong thời gian kéo dài đến 18 tháng. Chúng cũng có thể di chuyển trên bề mặt biển và từ đó tải các chỉ số cảm biến lên vệ tinh liên lạc Iridium để phân tích. Teledyne cho biết chương trình “Phương tiện dưới nước không người lái (UUV) đầu tiên được Hải quân Mỹ chọn để sản xuất với tốc độ cao” và một trong những chiếc tàu lượn này đã trở thành tâm điểm của một sự cố quốc tế.
Năm 2016, một tàu hải quân Trung Quốc đã thu được một tàu lượn Slocum trên Biển Đông, trước khi trao trả nó cho Hải quân Mỹ vài ngày sau đó. Đối với chương trình LSB-G, các thông số kỹ thuật của Hải quân Mỹ quy định robot phải có thể hoạt động ở độ sâu hơn 1.000 mét trong tối đa 90 ngày. Điều này có nghĩa là robot có thể tồn tại trong nhiều điều kiện, như một loại trạm thời tiết hữu ích nhưng có thể sử dụng, kiểm tra để thông báo cho Hải quân nói chung về mọi điều kiện dưới biển, nhờ vào công nghệ cảm biến hiện đại.
Hệ thống cảm biến sẽ đọc độ dẫn điện của nước, một tập dữ liệu cung cấp cho Hải quân thông tin về mức độ hoạt động của một số cảm biến nhất định trong đại dương. Độ dẫn điện cũng rất hữu ích để tìm hiểu những yêu cầu về độ dằn trên tàu ngầm. Đội quân tàu lượn cảm biến cũng sẽ kiểm tra nhiệt độ và độ sâu, cả hai đều thông báo mọi hoạt động dưới nước và có thể quét để tìm độ rõ nét quang học.
Một tàu lượn cảm ứng của Mỹ.
Với hệ thống cảm biến này, đội quân tàu lượn có thể dò tìm mìn dưới nước. Đội quân robot cũng thực hiện một số hoạt động theo dõi và giám sát đại dương. Đại dương rất rộng lớn, và trong khi Hải quân Mỹ có thể quan tâm đến tất cả những điều đó, thì khả năng giám sát biển là hữu hạn. Việc sử dụng robot sẽ mở rộng phạm vi hoạt động của việc giám sát này và sẽ ít có vấn đề gì nếu một robot bị bắt đang thực hiện công việc này hơn là nếu một phi hành đoàn con người bị bắt khi thực hiện sứ mệnh tương tự.
Việc sử dụng các robot có thể sử dụng được để thu thập thông tin này mở rộng ra các hoạt động hiện có, trong đó máy bay sẽ phóng ra các mảng cảm biến nổi được gọi là phao nổi trước khi lực lượng hải quân tiếp cận. Dưới nước, các robot rất khó theo dõi; và trên bề mặt, chúng có thể nhận các mệnh lệnh mới và di dời theo các kế hoạch thay đổi.
Nói rộng hơn, đội quân robot này không chỉ là công cụ mà còn là một phần trong tầm nhìn rộng lớn hơn của Hải quân Mỹ về một “đại dương vạn vật”, nơi những gì có thể biết về điều kiện trong nước được thu thập và chia sẻ với các hạm đội trong thời gian thực, hoặc gần với thời gian thực. Biết “hình dạng” của vùng nước có nghĩa là biết hình dạng của các trận chiến sắp xảy ra.