Vì sao EVN tăng giá điện gần 5%?

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) cho biết giá thành sản xuất điện thời gian qua chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố đầu vào về sản lượng điện phát, giá than, dầu, khí, tỷ giá ngoại tệ.

 Giá bán lẻ điện bình quân thêm 4,8% lên 2.103,11 đồng/kWh. Ảnh: Việt Linh.

Giá bán lẻ điện bình quân thêm 4,8% lên 2.103,11 đồng/kWh. Ảnh: Việt Linh.

Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đã có quyết định tăng giá bán lẻ điện bình quân thêm 4,8% từ 2.006,79 đồng/kWh lên 2.103,11 đồng/kWh (chưa bao gồm VAT), áp dụng từ ngày 11/10.

EVN lý giải đợt điều chỉnh giá điện dựa trên 3 cơ sở quan trọng.

Cụ thể, ở định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó có yêu cầu "áp dụng giá thị trường đối với mọi loại hình năng lượng" và "xóa bỏ mọi rào cản để bảo đảm giá năng lượng minh bạch do thị trường quyết định".

Việc điều chỉnh giá bán lẻ lần này cũng được thực hiện theo Quyết định số 05/2024 ngày 26/3 của Thủ tướng quy định về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân.

Về thực tiễn, EVN cho biết giá thành sản xuất điện chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố đầu vào về sản lượng điện phát, giá than, dầu, khí, tỷ giá ngoại tệ... Các yếu tố đầu vào nêu trên khi có biến động lớn sẽ tác động lớn đến giá thành khâu phát điện (chiếm 83% giá thành) cũng như giá thành điện thương phẩm.

Theo EVN, trong năm 2023, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino dẫn tới tình hình thủy văn không thuận lợi, nước về các hồ thủy điện rất thấp nên vào thời kỳ cuối mùa khô (từ giữa tháng 5 đến giữa tháng 6), hầu hết hồ thủy điện lớn miền Bắc đã suy giảm về mức nước chết.

Một số tổ máy nhiệt điện lớn bị sự cố kéo dài, không đảm bảo khả dụng để huy động theo nhu cầu hệ thống. Nắng nóng diễn ra trên diện rộng và kéo dài.

Trước tình hình này, EVN phải huy động tối đa các nguồn nhiệt điện, kể cả phát dầu để đảm bảo việc cung cấp điện cho đời sống người dân và hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp cả nước.

Tỷ trọng nguồn điện năm 2023 diễn biến theo chiều hướng bất lợi. Trong đó, các nguồn có giá mua rẻ là thủy điện giảm từ 38% xuống 30,5%, tỷ trọng các nguồn điện có giá mua đắt (nhiệt điện than) và giá mua rất đắt (nhiệt điện dầu) tăng từ 35,5% lên 43,8%.

Bên cạnh đó, nhu cầu phụ tải tăng cao qua các năm, trong khi không có nhiều công trình nguồn điện mới giá rẻ đi vào vận hành. Tổng sản lượng điện mua, nhập khẩu tại điểm giao nhận tăng thêm 11,8 tỷ kWh so với năm 2022, tương ứng mức tăng 4,6%.

Để đáp ứng nhu cầu điện tăng cao trong khi các nguồn điện giá rẻ hiện hữu chỉ đáp ứng được một phần, EVN phải mua điện bổ sung từ các nguồn có giá thành sản xuất cao hơn nhiều so với giá bán lẻ điện như các nguồn nhiệt điện sử dụng than nhập khẩu và nhiệt điện dầu.

Tuy nhiên, giá các loại nhiên liệu than, khí năm 2023 mặc dù giảm so với năm 2022 nhưng vẫn ở mức cao so với năm 2020 và 2021.

Ngoài ra, giá than pha trộn của TKV và TCT Đông Bắc cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện vẫn duy trì ở mức cao hơn 29-35% so với năm 2021 và có sự điều chỉnh việc sử dụng than pha trộn của các nhà máy nhiệt điện từ than rẻ hơn sang than có giá cao hơn.

Mặt khác, tỷ giá ngoại tệ tăng mạnh trong năm 2023 so với năm 2022 đã làm tăng chi phí mua điện từ các nguồn điện có giá mua theo hợp đồng bằng ngoại tệ (USD) hoặc giá mua nhiên liệu bằng ngoại tệ (USD).

Minh Khánh

Nguồn Znews: https://znews.vn/vi-sao-evn-tang-gia-dien-gan-5-post1503842.html