Gạo Việt 'rộng đường' vào châu Âu

'Nghị định số 103/2020/NĐ-CP ngày 4/9/2020 của Chính phủ quy định về chứng nhận chủng loại gạo thơm xuất khẩu sang Liên minh châu Âu đã có hiệu lực sẽ góp phần nâng cao chất lượng, uy tín, giá trị và thương hiệu của gạo Việt Nam.

Việt Nam hiện có 70 - 80% giống lúa đạt chất lượng cao.

Việt Nam hiện có 70 - 80% giống lúa đạt chất lượng cao.

Dư địa cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam còn rất lớn, nhất là khi thuế chỉ còn 0%. Đây cũng là động lực để ngành hàng lúa gạo tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu” – Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Quốc Doanh nhấn mạnh, khi trả lời phóng viên TBTCVN.

* PV: Thưa Thứ trưởng, mới đây Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Nghị định số 103/2020/NĐ-CP (NĐ 103) ngày 4/9/2020 quy định về chứng nhận chủng loại gạo thơm xuất khẩu (XK) sang Liên minh châu Âu (EU). Nghị định này liệu có thể tháo gỡ ngay lập tức vấn đề XK gạo thơm vào thị trường EU?

- Ông Lê Quốc Doanh: NĐ 103 có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp (DN) XK gạo. Nghị định đã quy định chi tiết nội dung về chứng nhận chủng loại gạo thơm phù hợp với nội dung của Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA); đồng thời phù hợp với chiến lược phát triển ngành Nông nghiệp, phát triển vùng nguyên liệu theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng, thúc đẩy phát triển trồng trọt theo định hướng thị trường, tạo nền sản xuất hàng hóa quy mô lớn, chất lượng và từng bước hiện đại. Nghị định cũng đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính theo chỉ đạo của Chính phủ; đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh XK gạo thơm sang EU; xã hội hóa tối đa các dịch vụ công.

Ông Lê Quốc Doanh

Theo Hiệp định EVFTA, EU sẽ dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn với mức thuế 0% đối với gạo xay xát, chưa xay xát và gạo thơm. Đặc biệt, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm. Cam kết này giúp Việt Nam có thể XK ước khoảng 100.000 tấn vào EU hàng năm. Đây là cơ hội để gạo Việt Nam, đặc biệt là gạo chất lượng cao khẳng định vị thế, thương hiệu trên thị trường EU nói riêng và thế giới nói chung.

Đối với 30.000 tấn gạo thơm trong hạn ngạch, hiện có 9 giống lúa thơm là Jasmine 85, ST 20, ST 5, Nàng Hoa 9, VD 20, RVT, OM 4900, OM 5451 và Tài nguyên Chợ Đào tận dụng những ưu đãi về thuế. Thời gian tới, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) sẽ phối hợp với các địa phương, tổ chức, cá nhân XK gạo rà soát lại danh mục giống lúa thơm đang trồng phổ biến tại nơi sản xuất, đồng thời phù hợp với nhu cầu tiêu thụ của EU để đề xuất chỉnh sửa, bổ sung Danh mục chủng loại gạo thơm XK sang EU đáp ứng yêu cầu thực tế sản xuất.

NĐ 103 có hiệu lực ngay từ ngày ký. Để tạo thuận lợi cho DN cũng như đơn vị quản lý, những đơn vị khảo nghiệm giống cây trồng được công nhận sẽ thực hiện việc chứng nhận đúng giống này. Chúng tôi đề nghị các DN đã có gạo thơm trong chủng loại trong hiệp định, cả EU và Việt Nam đã thống nhất đã có đơn hàng thì khẩn trưởng gửi hồ sơ tới Cục Trồng trọt (Bộ NN&PTNT). Chúng tôi sẽ nhanh chóng cấp giấy chứng nhận gạo thơm để hoàn thiện các thủ tục xuất sang EU. Hiện đã có 3 DN gửi hồ sơ về Cục Trồng trọt xin cấp giấy chứng nhận.

* PV: Một trong những yêu cầu vô cùng khắt khe của thị trường thị trường này là phải đảm bảo quy tắc truy xuất nguồn gốc sản phẩm, những quy định về chất lượng cũng rất cao. Các lô gạo thơm đầu tiên XK sang EU đã được sản xuất như thế nào để đáp ứng được yêu cầu của EU, thưa Thứ trưởng?

- Ông Lê Quốc Doanh: EU yêu cầu gạo thơm XK sang EU để được hưởng miễn thuế nhập khẩu theo hạn ngạch phải được chứng nhận đảm bảo tính đúng giống. Do vậy, để đảm bảo độ thuần, tính đúng giống của gạo thơm XK, cần thiết phải kiểm tra ruộng lúa thơm trước khi thu hoạch. Tại nghị định quy định việc kiểm tra ruộng lúa thơm thực hiện 1 lần trong thời gian 20 ngày trước khi thu hoạch. Tổ chức, cá nhân XK gạo thơm phải chịu trách nhiệm về độ thuần, tính đúng giống trong quá trình thu hoạch, phơi, sấy, sơ chế, bảo quản, xay, xát, chế biến, đóng gói.

* PV: Nhìn từ lợi thế, tiềm năng của việc XK vào thị trường EU theo EVFTA cho thấy nền tảng quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo. Thời gian tới, ngành hàng lúa gạo cần thực hiện giải pháp gì để nâng cao giá trị gia tăng và thu nhập cho người trồng lúa, thưa ông?

* PV: Nhìn từ lợi thế, tiềm năng của việc XK vào thị trường EU theo EVFTA cho thấy nền tảng quan trọng để chúng ta tiếp tục đẩy mạnh thực hiện tái cơ cấu ngành hàng lúa gạo. Thời gian tới, ngành hàng lúa gạo cần thực hiện giải pháp gì để nâng cao giá trị gia tăng và thu nhập cho người trồng lúa, thưa ông?

- Ông Lê Quốc Doanh: Thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp trong thời gian qua, lúa gạo là một trong những ngành hàng tái cơ cấu thành công. Điều này thể hiện đến nay đã có 70 - 80% giống lúa đạt chất lượng cao. Giá gạo XK của Việt Nam đang tăng rất nhanh, có thời điểm giá XK gạo 5% tấm của Việt Nam vượt Thái Lan. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt về phát triển nông nghiệp hữu cơ, gần đây nhất là ban hành đề án nông nghiệp hữu cơ và có một bộ tiêu chuẩn nông nghiệp Việt Nam về sản xuất nông nghiệp hữu cơ. Đây là hành lang pháp lý quan trọng để thúc đẩy nông nghiệp hữu cơ cũng như sản phẩm gạo hữu cơ. Với cách làm đó, thời gian tới dòng sản phẩm hữu cơ, trong đó có gạo hữu cơ cũng như gạo đặc sản sẽ ngày càng phát triển và đáp ứng được phân khúc của thị trường, đặc biệt của các nước nhập khẩu.

Bên cạnh đó, chúng ta vẫn phải đảm bảo năng suất lúa bình quân 6 tấn/1 vụ, với diện tích khoảng 7,8 triệu ha; đồng thời nâng cao giá trị chất lượng hạt gạo của Việt Nam để có giá bán cao hơn. Cùng với đó, giảm được chi phí sản xuất thì người nông dân mới có lãi, có thu nhập cao và trong tái cơ cấu mấy năm qua chúng ta đang đi theo hướng như thế. Ngoài ra, từng DN, từng địa phương phải xây dựng hình ảnh thương hiệu gạo quốc gia.

Đối với thị trường EU nói riêng – đây thị trường rất khó tính với các yêu cầu về giống, chất lượng, nguồn gốc xuất xứ. Nếu làm tốt khẩu kiểm tra, kiểm soát tốt về chất lượng và được người tiêu dùng EU tiếp nhận thì đây cũng là cơ sở cho việc đàm phán mở rộng hạn ngạch XK gạo thơm vào thị trường EU trong thời gian tới.

* PV: Xin cảm ơn ông!

Hàng năm Việt Nam xuất khẩu từ 6 - 6,5 triệu tấn gạo, trong đó lượng gạo xuất khẩu tập trung chủ yếu tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Gạo của Việt Nam có tiềm năng lớn để xuất khẩu vào EU khi mở rộng được hạn ngạch: Năm 2019 lượng gạo của Việt Nam xuât khẩu vào EU 50 nghìn tấn gạo, trị giá 28,5 triệu Euro.

Theo cam kết tại Hiệp định EVFTA, EU dành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo/năm (gồm 30.000 tấn gạo xay xát, 20.000 tấn gạo chưa xay xát và 30.000 tấn gạo thơm). Đặc biệt, EU sẽ tự do hóa hoàn toàn đối với gạo tấm (cam kết này giúp Việt Nam có thể xuất khẩu ước khoảng 100.000 tấn vào EU hàng năm). Đối với sản phẩm từ gạo, EU sẽ đưa thuế suất về 0% sau 3 - 5 năm. Trong khi đó, 2 nhà xuất khẩu lớn gạo vào EU là Campuchia và Myanmar đang chịu thuế tuyệt đối với mặt hàng này cho đến hết năm 2021, cụ thể 175 Euro/tấn (2019); 150 Euro/tấn (2020) và 125 Euro/tấn (2021).

Nam Khánh (thực hiện)

Nguồn Thời báo Tài chính: http://thoibaotaichinhvietnam.vn/pages/nhip-song-tai-chinh/2020-09-10/gao-viet-rong-duong-vao-chau-au-92097.aspx