Giá nông sản 27/7: Cao su lập đỉnh mới, cà phê trong nước tăng nhẹ
Giá mủ cao su trong nước 'lập đỉnh mới' sau 10 năm, cà phê trong nước đồng loạt tăng, hồ tiêu biến động trái chiều, giá lúa điều chỉnh tăng, gạo giao dịch trầm.
Giá cà phê trong nước đồng loạt tăng
Giá cà phê trong nước được cập nhật lúc 4h30 phút ngày 27/7/2024 như sau, theo trang www.giacaphe.com, giá cà phê trong nước tăng nhẹ 700 - 800 đồng/kg so với ngày hôm qua nằm trong khoảng 124.800-125.500 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 125.300 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Nông là 125.500 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 125.200 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 125.100 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum tăng 700 đồng/kg được thu mua ở mức giá 125.200 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông tăng 800 đồng/kg cà phê được thu mua với giá cao nhất 125.500 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê tăng 800 đồng/kg được thu mua với giá 124.800 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay ngày 27/7 tại tỉnh Đắk Lắk tăng 800 đồng/kg; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 125.300 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 125.200 đồng/kg.
Giá cà phê tại Việt Nam cũng đã giảm trong tuần này sau khi giá trên sàn London yếu hơn cũng như do nhu cầu và nguồn cung thấp vào cuối vụ thu hoạch, những nhà kinh doanh cho biết mức giá mua cộng tới tại Indonesia cũng giảm do nguồn cung đã có tín hiệu dồi dào hơn.
Nông dân ở Tây Nguyên, đang bán với giá 124.000-125.000 đồng (4,90-4,94 đô la) một kg, giảm so với mức 127.000-127.900 đồng của tuần trước.
Giá cà phê thế giới rạng sáng ngày 27/7/2024, lúc 4h30 được cập nhật trên sàn giao dịch Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam MXV.
Giá cà phê trực tuyến hôm nay của ba sàn giao dịch cà phê kỳ hạn chính ICE Futures Europe, ICE Futures US và B3 Brazil được trang www.giacaphe.com cập nhật như sau:
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 27/7/2024 lúc 4h30 giảm ở mức 3.849 - 4.302 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 4.302 USD/tấn (giảm 93 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 4.150 USD/tấn (giảm 92 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 1/2025 là 3.984 USD/tấn (giảm 82 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 3.849 USD/tấn (giảm 73 USD/tấn).
Giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 27/7/2024 mức giảm từ 225.65 - 230.25 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 234.25 cent/lb (giảm 1.90%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 229.15 cent/lb (giảm 1.88%); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 227.90 cent/lb (giảm 1.83 %) và kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 225.65 cent/lb (giảm 1.74 %).
Giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 27/7/2024 giảm nhẹ. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 09/2024 là 286.70 USD/tấn (giảm 0.47%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 281.00 USD/tấn (giảm 0.44 %); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 277.35 USD/tấn (giảm 1.98%) và giao hàng tháng 5/2025 là 274.30 USD/tấn (giảm 1.90%).
Cà phê Robusta giao dịch trên sàn ICE Futures Europe (sàn London) mở cửa lúc 16h00 và đóng cửa lúc 00h30 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Cà phê Arabica trên sàn ICE Futures US (sàn New York) mở cửa lúc 16h15 và đóng cửa lúc 01h30 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Đối với cà phê Arabica giao dịch trên sàn B3 Brazil sẽ mở cửa từ 19h00 - 02h35 (hôm sau), giờ Việt Nam.
Thông tin cập nhật về nền kinh tế Mỹ tiếp tục đẩy USD giảm giá. Đồng USD giảm giúp giá cả hàng hóa tăng trở lại, trong đó có cà phê. Ngoài ra, các quỹ và đầu cơ mua vào sau phiên bán mạnh trước đó đã gúp cà phê 2 sàn hồi phục.
Đồng Real của Brazil giảm xuống mức thấp nhất trong 19 tháng so với đồng USD, đã khuyến khích người trồng đẩy mạnh bán ra. Bên cạnh đó, thời tiết tại nguồn cung cà phê số 1 thế giới - Brazil dự báo sẽ có mưa tại các vùng trồng cà phê của nước này cũng góp phần làm giảm lo ngại về hạn hán vốn đang gây áp lực lên giá cà phê.
Các đại lý kỳ vọng xuất khẩu trong tháng 7/2024 của Brazil sẽ đạt gần mức kỷ lục, sau khi vụ 2023/24 có tốc độ thu hoạch nhanh chóng.
Tại Indonesia, cà phê Sumatra được chào bán ở mức cộng 600 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 8 và tháng 9 ở London, không đổi so với tuần trước. Nông dân tại khu vực Lampung cho biết, thời tiết khô trong giai đoạn ra hoa đã hỗ trợ nhiều cho cây cà phê.
Tại Colombia, sản lượng cà phê của nước này trong niên vụ 2023/24 ước tính tăng 18% so với niên vụ trước đạt 12,5 triệu bao. Điều kiện thời tiết thuận lợi khiến sản lượng cà phê của Colombia phục hồi tích cực và giúp thúc đẩy xuất khẩu.
Tại Uganda, xuất khẩu cà phê của nước này trong tháng 7/2024 được dự báo đạt 650.000 bao, khi thu hoạch vụ chính đã qua đợt cao điểm
Giá hồ tiêu trong nước đi ngang
Ở trong nước, thị trường hồ tiêu ngày 27/7 chủ yếu đi ngang so với hôm qua. Cụ thể, Đắk Lắk vẫn thu mua hồ tiêu tại giá 150.000 đ/kg;
Giá hồ tiêu Đắk Nông hôm nay giữ ở mức 150.000 đ/kg; Giá tiêu Gia Lai hôm nay tiếp tục giao dịch tại mốc 149.000 đ/kg;
Thương lái Đồng Nai vẫn đang thu mua hồ tiêu ở giá 150.000 đ/kg; Giá hồ tiêu Bà Rịa - Vũng Tàu hôm nay tăng thêm 1.000 đồng, lên ngưỡng 150.000 đ/kg;
Còn Bình Phước đang giao dịch hồ tiêu với giá 149.000 đ/kg. Giá hồ tiêu trong nước tăng thêm 1.000 đồng ở Bà Rịa Vũng Tàu, các vùng trọng điểm khác đứng yên. Hiện nông sản này đang giữ ở ngưỡng 150.000 đ/kg.
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong 6 tháng đầu năm, Việt Nam đã xuất khẩu tổng cộng 141.392 tấn hồ tiêu các loại, thu về 629,9 triệu USD; giảm 7,4% về lượng nhưng tăng tới hơn 30% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023.
Tại Việt Nam, giá tiêu đen xuất khẩu loại 500 g/l giao dịch với mức 6.000 USD/tấn; còn loại 550 g/l ở mức 6.600 USD/tấn. Còn giá hồ tiêu trắng xuất khẩu giữ tại mốc 8.800 USD/tấn.
Trên thế giới, thị trường hồ tiêu ngày 27/7 có xu hướng giảm.
Theo đó, giá hạt tiêu đen Lampung tại Indonesia giảm 0,15%, về mức 7.150 USD/tấn. Còn giá hạt tiêu trắng Muntok của quốc gia này giảm 0,16%; ở ngưỡng 9.103 USD/tấn.
Giá hồ tiêu đen Kuching ASTA của Malaysia giữ ở mức 7.500 USD/tấn; còn hồ tiêu trắng ASTA của quốc gia này có giá 8.800 USD/tấn.
Đối với thị trường Brazil, giá hạt tiêu đen ASTA 570 giảm mạnh 2,52%, xuống ngưỡng 6.950 USD/tấn.
Giá hồ tiêu thế giới hôm nay giảm nhẹ tại Indonesia và giảm mạnh ở tiêu đen Brazil. Trong khi đó, các quốc gia khác vẫn đứng yên.
IPC nhận định, thị trường tiêu tuần này tiếp tục có những phản ứng trái chiều. Cả giá tiêu Ấn Độ trong nước và quốc tế đều có xu hướng giảm trong 3 tuần qua. Giá hồ tiêu Indonesia trong nước và quốc tế ổn định. Chỉ có giá tiêu nội địa Malaysia tiếp tục tăng.
Trong đó, Ấn Độ là thị trường tiêu thụ hồ tiêu lớn thứ 4 của Việt Nam với khối lượng đạt 6.813 tấn, trị giá 28 triệu USD; tăng mạnh 46,5% về lượng và tăng tới 90,6% về trị giá.
Còn theo số liệu của Bộ Thương mại Ấn Độ, tính đến hết tháng 5, tổng nhập khẩu hồ tiêu của quốc gia này đạt 12.482 tấn, tăng gần 11% so với cùng kỳ năm ngoái.
Đáng chú ý, Việt Nam là nguồn cung hồ tiêu lớn nhất cho Ấn Độ trong 5 tháng đầu năm với khối lượng đạt 5.220 tấn, tăng 42,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả này giúp cho thị phần hồ tiêu của Việt Nam tại Ấn Độ mở rộng từ 32,5% lên mức 41,8%.
Giá tiêu xuất khẩu bình quân của Việt Nam vào Ấn Độ trong 5 tháng tăng 29,7% lên 4.371 USD/tấn, cao hơn so với mức giá 3.414 USD/tấn của Brazil và 3.141 USD/tấn của Indonesia, nhưng thấp hơn so với con số 6.190 USD/tấn của Sri Lanka.
Giá mủ cao su trong nước lập đỉnh mới sau 10 năm
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 0,32% xuống mức 315,6 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,28% ở mức 14.390 nhân dân tệ/tấn.
Cách đây 1 tuần giá mủ cao su dao động từ 40 – 41 triệu đồng/tấn. Đây là giá "lập đỉnh mới" sau khoảng 10 năm. Từ năm 2015 đến nay, giá mủ cao su nằm trong khung từ 23 – 39 triệu đồng/tấn.
Đã vào vụ thu hoạch mủ cao su, nhiều hộ, trang trại, công ty có cao su đang tất bật cạo mủ. Năm nay nắng nóng kéo dài nên hầu hết các loại cây trồng như cà phê, sầu riêng, hồ tiêu và kể cả cây cao su bị mất sức khá nhiều. Nhiều nơi cao su trồng ở triền đồi hoặc cát pha "đất hốc" nên bị chết. Tuy nhiên, so với các loại cây trồng khác thì cao su vẫn có sức chịu được hạn cao hơn nên thiệt hại ít hơn.
Vào mùa cạo mủ, cao su có giá cao nên các vườn đầu tư mạnh để khai thác. Giá công cạo mủ hiện nay là 450 - 500 đồng/cây, nếu chịu khó từ đêm đi cạo mủ và buổi sáng đi lấy cũng được 2.000 – 2.500 cây, tiền công cũng được từ 400.000 – 600.000 đồng. Đây là nguồn thu nhập không nhỏ ở vùng nông thôn, nhất là khu vực miền núi vùng sâu vùng xa như Tánh Linh, Hàm Thuận Bắc, nhất là khu vực có nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống như La Dạ, Đông Giang, Đông Tiến… tạo nguồn thu nhập ổn định cho nhiều gia đình.
Trong 5 tháng đầu năm 2024, Việt Nam là thị trường cung cấp cao su lớn thứ 2 cho Trung Quốc với 506,43 nghìn tấn, trị giá 715,46 triệu USD, giảm 10,7% về lượng và giảm 7% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023. Thị phần cao su Việt Nam chiếm 17,31% trong tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc trong 5 tháng đầu năm 2024, cao hơn so với mức 16,4% của 5 tháng đầu năm 2023.
Về chủng loại nhập khẩu, Trung Quốc chủ yếu nhập khẩu cao su tự nhiên và cao su tổng hợp, lượng nhập khẩu các chủng loại này đều có xu hướng giảm so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, cao su tự nhiên chiếm 28,94% tổng lượng cao su nhập khẩu của Trung Quốc; Cao su tổng hợp chiếm 67,25%; Phần còn lại là cao su tái sinh và cao su hỗn hợp.
Trung Quốc nhập khẩu 846,83 nghìn tấn cao su tự nhiên (HS 4001), trị giá 1,25 tỷ USD, giảm 19,3% về lượng và giảm 9% về trị giá so với cùng kỳ năm 2023, chủ yếu nhập khẩu từ các thị trường: Thái Lan, Bờ Biển Ngà, Malaysia, Việt Nam và Indonesia. Trừ Việt Nam và Malaysia, lượng cao su tự nhiên nhập khẩu của Trung Quốc từ các thị trường còn lại đều giảm so với cùng kỳ năm 2023.
Giá lúa điều chỉnh tăng, gạo giao dịch trầm lắng
Với mặt hàng lúa, ghi nhận tại các địa phương, giao dịch lúa mới đa phần chờ cắt, nhiều nơi ngưng mua, giá ít biến động. Cụ thể, tại tỉnh An Giang, giao dịch ổn định, giá vững. Tại tỉnh Sóc Trăng, chất lượng đẹp, giá lúa ít biến động, nhu cầu mua lúa đều.
Trên thị trường lúa, giá hôm nay điều chỉnh tăng nhẹ với một số mặt hàng so với ngày hôm qua. Giá lúa IR 50404 dao động quanh mức 6.800 - 7.000 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 tăng 200 - 300 đồng/kg lên mức giá 7.000 - 7.300 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 6.900 - 7.000 đồng/kg, tăng 100 - 200 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.200 - 7.300 đồng/kg, tăng 200 - 300 đồng/kg; lúa OM 380 dao động ở mức 6.800 - 7.000 đồng/kg; lúa Nhật ở mức 7.800 - 8.000 đồng/kg; lúa Nàng Hoa 9 ở mức 6.900 - 7.000 đồng/kg, lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Với mặt hàng gạo, giá gạo ổn định so với ngày hôm qua. Cụ thể, gạo nguyên liệu IR 504 hè thu ở mức 10.700 - 10.800 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 duy trì ở mức 12.500 - 12.600 đồng/kg.
Thị trường gạo tại các địa phương trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long hôm nay nhìn chung giao dịch chậm, gạo xấu nhiều, giá ổn định, kho mua chậm.
Cụ thể, tại An Cư, lượng về ít, giá bình ổn, kho mua chậm. Tại TP Sa Đéc (tỉnh Đồng Tháp), chất lượng gạo thấp, kho mua ít, giá ổn định.
Tại các chợ lẻ, giá gạo ghi nhận không có sự điều chỉnh với các mặt hàng gạo lẻ. Hiện gạo Nàng Nhen có giá niêm yết cao nhất 30.000 đồng/kg; gạo Jasmine 18.000 - 20.000 đồng/kg; gạo Nàng hoa 20.000 đồng/kg; gạo tẻ thường dao động quanh mốc 15.000 - 16.000 đồng/kg; gạo thơm Thái hạt dài 20.000 - 21.000 đồng/kg; gạo Hương Lài 20.000 đồng/kg; gạo thơm Đài Loan 21.000 đồng/kg; gạo trắng thông dụng 17.000 đồng/kg; gạo Sóc thường 18.500 đồng/kg; gạo Sóc Thái giá 20.000 đồng/kg; gạo Nhật giá 22.000 đồng/kg.
KHÁNH LINH (t/h)