Giá nông sản 4/7: Cà phê tăng nhẹ, lúa gạo đồng loạt giảm
Cà phê tăng nhẹ, cao su biến động trái chiều, lúa gạo đà ngang, thị trường giao dịch chậm, hồ tiêu giảm mạnh từ 1.000-5000 đồng/kg.
Hồ tiêu giảm mạnh
Giá tiêu hôm nay ngày 4/7/2024, tại khu vực Đông Nam Bộ tiếp tục điều chỉnh giảm từ 1.000 - 5.000 đồng/kg ở một số địa phương, giao dịch quanh mốc 149.000 -151.000 đồng/kg, giá mua cao nhất tại các tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông là 151.000 đồng/kg.
Theo đó, giá tiêu Đắk Lắk được thu mua ở mức 151.000 đồng/kg mức giảm 3.000 đồng/kg so với giá ngày hôm qua. Giá tiêu Chư Sê (Gia Lai) hiện ở mức 149.000 đồng/kg, giảm 5.000 đồng/kg so với ngày hôm qua. Giá tiêu Đắk Nông hôm nay ghi nhận ở mức giá 151.000 đồng/kg, giảm 1.000 đồng/kg.
Tại khu vực Đông Nam Bộ, giá tiêu hôm nay giảm 5.000 đồng/kg. Cụ thể, tại Bà Rịa – Vũng Tàu giảm 5.000 đồng ở mức 150.000 đồng/kg; tại Bình Phước giảm 5.000 đồng/kg, giá tiêu ở mức 150.000 đồng/kg.
Giá tiêu nội địa hôm nay tiếp tục giảm 1.000 - 5.000 đồngkg, giao dịch ở mức 150.000 đồng/kg. Như vậy, giá tiêu trong nước hôm nay giảm mạnh ở một số địa phương trọng điểm so với hôm qua. Tại tất cả các địa phương, giá tiêu đều ở ngưỡng 149.000 đồng/kg. Giá tiêu cao nhất được ghi nhận ở mốc 151.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá hồ tiêu hôm nay tại tỉnh Đắk Lắk, Đắk Nông đang thu mua ở mức 70.500 đ/kg; đi ngang so với hôm qua; Giá tiêu Gia Lai hôm nay 4/7 không đổi, giao dịch ở mức 69.000 đ/kg;
Giá tiêu tại Đồng Nai hôm nay không có biến động mới, thu mua ở mức 69.000 đ/kg; Giá tiêu hôm nay tại Bà Rịa - Vũng Tàu duy trì ở mức 72.000 đ/kg - mức thu mua hồ tiêu cao nhất cả nước hôm nay;
Còn tại Bình Phước, giá tiêu hôm nay 4/7 giao dịch ở ngưỡng 71.000 đ/kg, không đổi so với hôm qua.Thị trường hồ tiêu trong nước hôm nay đi ngang, trong khi đó giá tiêu tuần qua giảm 500 - 1.000 đ/kg so với tuần trước đó.
Theo chuyên gia nhận định, hầu hết giá cả thị trường hàng hóa đang tạm thời chùng xuống do đầu cơ rút vốn vì lo ngại rủi ro sẽ tăng cao trước phiên họp chính sách tiền tệ tháng 7 của Fed. Nhiều nguồn tin cho biết Fed sẽ tiếp tục điều chỉnh tăng lãi suất trong phiên họp tới.
Việc tăng lãi suất của Fed thu hút các nhà đầu tư rút tiền ở các thị trường mới nổi còn nhiều rủi ro như Việt Nam quay về đầu tư tại Mỹ, hoặc các thị trường phát triển khác nhằm giảm thiểu rủi ro và hưởng lãi suất cao hơn.
Tăng lãi suất cho vay (bằng đồng USD) sẽ làm giảm nhu cầu tiêu dùng của người dân, cũng như làm suy yếu nhu cầu mở rộng đầu tư của các doanh nghiệp.
Do đó, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có thể sẽ chậm lại trong những quý tới do người tiêu dùng tại các thị trường xuất khẩu chủ chốt như Mỹ và châu Âu thắt chặt chi tiêu.
Về trung hạn, có ý kiến nhận định thị trường hồ tiêu sẽ tăng trở lại vào giữa quý III, khi nhu cầu nhập khẩu cho những kỳ lễ hội cuối năm và dịp Tết ở các quốc gia tăng cao.
Ngoài ra, xuất khẩu hồ tiêu của Việt Nam còn kỳ vọng từ thị trường Trung Quốc hấp thụ thêm khoảng 30.000 - 40.000 tấn trong nửa còn lại của năm 2022.
Cà phê tăng nhẹ
Giá cà phê trong nước hôm nay tăng nhẹ 500 đồng/kg nằm trong khoảng 120.700-122.000 đồng/kg. Hiện giá mua trung bình tại các tỉnh Tây Nguyên là 121.800 đồng/kg, giá mua cao nhất tại tỉnh Đắk Nông 122.000 đồng/kg.
Cụ thể, giá cà phê thu mua tại tỉnh Gia Lai (Chư Prông) là 121.700 đồng, ở Pleiku và La Grai cùng giá 121.600 đồng/kg; Tại tỉnh Kon Tum ở mức giá 127.200 đồng/kg; Tại tỉnh Đắk Nông cà phê được thu mua với giá cao nhất 122.000 đồng/kg.
Giá cà phê nhân xô (cà phê nhân, cà phê nhân tươi) tại tỉnh Lâm Đồng ở các huyện như Bảo Lộc, Di Linh, Lâm Hà, cà phê được thu mua với giá 120.700 đồng/kg.
Giá cà phê hôm nay (ngày 4/7) tại tỉnh Đắk Lắk; ở huyện Cư M'gar cà phê được thu mua ở mức khoảng 121.700 đồng/kg, còn tại huyện Ea H'leo, thị xã Buôn Hồ được thu mua cùng mức 121.600 đồng/kg.
Các đại lý lưu ý lượng tồn kho trên sàn giao dịch tăng và sự suy yếu gần đây của đồng Real Brazil đang giúp kiềm chế giá, nhưng khô hạn tiếp diễn tại Brazil làm tăng lo ngại về sản lượng trong thời gian tới.
Tồn kho cà phê Arabica đã qua phân loại được chứng nhận nắm giữ trên thị trường New York ở mức 815.176 bao vào ngày 1/7, tăng so với mức 780.583 bao một tháng trước đó.
Báo cáo từ Viện Cà phê Costa Rica cho thấy, xuất khẩu cà phê của nước này từ tháng 10/2023 – tháng 6/2024 giảm 7,6% so với cùng kỳ trước đó, chỉ đạt 702.097 bao.
Dữ liệu thương mại của chính phủ Indonesia, xuất khẩu cà phê từ đảo Sumatra, hòn đảo sản xuất cà phê hàng đầu ở Indonesia, trong tháng 5/2024 giảm mạnh hơn 53,99% so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, Việt Nam đã xuất khẩu 85.000 tấn cà phê trong tháng 6/2024 và tổng 900.000 tấn trong 6 tháng đầu năm 2024 với trị giá 3,2 tỷ USD.
Sản lượng cà phê của Việt Nam trong niên vụ 2024/25 sắp thu hoạch vào cuối năm nay được dự báo chỉ đạt 29 triệu bao (gồm 27,85 triệu bao robusta và 1,15 triệu bao arabica), giảm 0,35% so với niên vụ hiện tại.
Thị trường hàng hóa hai ngày vừa qua biến động khi giới đầu cơ chờ đợi công bố biên bản cuộc họp chính sách mới nhất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ.
Kết thúc phiên giao dịch, giá cà phê Robusta trên sàn London ngày 4/7/2024 lúc 4h30 giảm ở mức 3.629 - 4.058 USD/tấn. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 4.058 USD/tấn (giảm 34 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 11/2024 là 3.902 USD/tấn (giảm 29 USD/tấn); kỳ hạn giao hàng tháng 1/2024 là 3.737 USD/tấn (giảm 19 USD/tấn) và kỳ hạn giao hàng tháng 3/2025 là 3.629 USD/tấn (giảm 15 USD/tấn).
Ngược lại, giá cà phê Arabica trên sàn New York sáng ngày 4/7/2024 tăng, mức tăng từ 217.45 - 224.20 cent/lb. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 9/2024 là 224.20 cent/lb (giảm 1.36%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 222.05 cent/lb giảm 1.18%); kỳ giao hàng tháng 3/2025 là 219.80 cent/lb (giảm 1.26 %) và kỳ giao hàng tháng 5/2025 là 217.45cent/lb (giảm 1.32%).
Giá cà phê Arabica Brazil sáng ngày 4/7/2024 tăng, giảm trái chiều. Cụ thể, kỳ hạn giao hàng tháng 7/2024 là 287.35USD/tấn (giảm 1.44%); kỳ giao hàng tháng 9/2024 là 273.00 USD/tấn (tăng 0.11%); kỳ giao hàng tháng 12/2024 là 270.15 USD/tấn (giảm 1.13 %) và giao hàng tháng 3/2025 là 266.60 USD/tấn (giảm 1.37%).
Lúa gạo đồng loạt điều chỉnh giảm nhẹ
Cụ thể, giá gạo nguyên liệu IR 504 ở mức 10.550 - 10.700 đồng/kg, giảm 100 - 150 đồng/kg; gạo thành phẩm IR 504 ở mức 12.550 - 12.700 đồng/kg, giảm 50 - 100 đồng/kg.
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Phát triển tỉnh An Giang, giá lúa hôm nay không có biến động so với ngày hôm qua. Trong đó, lúa IR 50404 giá dao động quanh mốc 6.900 - 7.000 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; lúa Đài thơm 8 giá 7.100 - 7.200 đồng/kg, giảm 100 đồng/kg; lúa OM 5451 giá ổn định 7.000 - 7.100 đồng/kg; lúa OM 18 có giá 7.000 - 7.200 đồng/kg giảm 100 đồng/kg; OM 380 dao động 7.200 - 7.300 đồng/kg, tăng 100 đồng/kg. Lúa Nhật ở mốc ở mốc 7.800 - 8.000 đồng/kg; Nàng Hoa 9 giá 7.600 - 7.700 đồng/kg và lúa Nàng Nhen (khô) ở mức 20.000 đồng/kg.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo xuất khẩu của Việt Nam ổn định. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), gạo 100% tấm ở mức 470 USD/tấn, tăng 3 USD/tấn; gạo tiêu chuẩn 5% tấm hiện ở mức 572 USD/tấn, tăng 3 USD/tấn; gạo 25% tấm ổn định ở mức 547 USD/tấn, tăng 3 USD/tấn.
Cao su thế giới biến động trái chiều
Tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM), giá cao su giao kỳ hạn tháng 7/2024 giảm 1,74% xuống mức 340 yen/kg tại thời điểm khảo sát vào lúc 6h00 (giờ Việt Nam).
Trên Sàn giao dịch hàng hóa tương lai Thượng Hải (SHFE), giá cao su RSS3 giao kỳ hạn tháng 7/2024 tăng 0,33% ở mức 14.985 nhân dân tệ/tấn.
Theo Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương), trong các tháng tới, xuất khẩu cao su của Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh do lo ngại nhu cầu chững lại tại Trung Quốc, trong khi cao su của Việt Nam phần lớn được xuất khẩu sang thị trường này.
Từ tháng 1 đến tháng 5/2024, Trung Quốc nhập khẩu tổng cộng 2,8 triệu tấn cao su tự nhiên và tổng hợp, giảm 16,6% so với gần 3,4 triệu tấn của cùng kỳ năm trước, thông tin từ Bộ Công Thương Việt Nam.
Mặc dù vậy, xuất khẩu cao su của Việt Nam vẫn có những tín hiệu tích cực. Đó là kim ngạch xuất khẩu sang hầu hết thị trường lớn khác như Ấn Độ, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Đài Loan (Trung Quốc), Bỉ… đều tăng trưởng cao từ hai đến ba con số trong những tháng đầu năm nay.
KHÁNH LINH (t/h)