Gia tăng áp lực cạnh tranh đối với sản phẩm cá ngừ
Hiện ngành cá ngừ vẫn bị kìm hãm bởi nút thắt thiếu nguyên liệu, vì sản lượng khai thác không đủ đáp ứng nhu cầu, nên phải tăng nguồn cung từ nhập khẩu. Đồng thời, việc Liên minh châu Âu (EU) và Thái Lan đã bước sang vòng đàm phán tiếp theo và có thể tiến tới ký kết Hiệp định thương mại tự do EU - Thái Lan (ETFTA), dự kiến sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh cho các sản phẩm cá ngừ của Việt Nam tại thị trường EU.
Xuất khẩu cá ngừ đóng hộp ngày càng tăng
Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, trong tháng 5.2024, xuất khẩu cá ngừ tăng 36% đạt trên 95 triệu USD, trong đó các sản phẩm cá ngừ đóng hộp tăng 18%, cá ngừ đóng túi tăng đột phá gấp hơn 3,5 lần; cá ngừ loin/phile đông lạnh tăng 25% và cá ngừ nguyên con đông lạnh tăng gấp hơn 7 lần so với tháng 5.2023. Lũy kế tới hết tháng 5.2024, xuất khẩu cá ngừ đạt gần 397 triệu USD, tăng 25% so với cùng kỳ năm 2023.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) cho biết, từ năm 2021 trở lại đây xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam đang có xu hướng ngày càng tăng. Kim ngạch xuất khẩu đã tăng từ mức 169 triệu USD năm 2021 lên 255 triệu USD năm 2023, tăng 51%.
Bước sang năm 2024, xuất khẩu cá ngừ đóng hộp của Việt Nam có xu hướng tăng nhanh hơn qua từng tháng. Tính riêng 4 tháng đầu năm 2024, xuất khẩu nhóm sản phẩm này của Việt Nam đã tăng 51% so với cùng kỳ năm 2023. Hiện, các sản phẩm cá ngừ đóng hộp của Việt Nam đã tiếp cận được hơn 65 thị trường. Trong đó, Mỹ, EU và Israel là 3 thị trường nhập khẩu nhiều nhất. Xuất khẩu sang các thị trường này đều tăng trưởng cao, lần lượt là 88%, 35% và 141%.
Riêng thị thị trường EU, xuất khẩu cá ngừ đóng hộp sang các nước trong khối phần lớn đều tăng. Đức, Ba Lan và Hà Lan là 3 thị trường dẫn đầu về nhập khẩu nhóm sản phẩm này của Việt Nam.
Ngược lại, xuất khẩu cá ngừ tươi và đông lạnh, trong đó chủ yếu là thịt/loin cá ngừ đông lạnh mã HS0304 không ổn định. Sau khi đạt đỉnh vào năm 2022, xuất khẩu nhóm sản phẩm này giảm mạnh. Bước sang năm 2024, xuất khẩu nhóm sản phẩm đã tăng trở lại, tuy nhiên mức tăng không cao, chỉ tăng 6% so với cùng kỳ.
Các chuyên gia dự báo, sự tiện lợi là yếu tố then chốt đối với người mua hàng và hải sản có giá trị gia tăng được ướp trước hoặc chế biến sẵn để hâm nóng và ăn sẽ tiếp tục thu hút người mua muốn tạo ra các bữa ăn kết hợp để kết hợp nấu ăn với các món đã chuẩn bị sẵn. Do đó, nhu cầu tiêu thụ đối với các sản phẩm cá ngừ chế biến và đóng hộp sẽ khởi sắc hơn trong thời gian tới.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp xuất khẩu cũng cho rằng sự tăng trưởng này là do lượng tồn kho tại các thị trường giảm chứ nhu cầu thị trường vẫn chưa thực sự khả quan hơn.
Lo ngại Thái Lan chiếm thị phần tại EU
Theo Chuyên gia thị trường cá ngừ của VASEP Nguyễn Hà, hiện nay ngành cá ngừ vẫn bị kìm hãm bởi nút thắt thiếu nguyên liệu, vì sản lượng khai thác không đủ đáp ứng nhu cầu, nên phải tăng nguồn cung từ nhập khẩu. Trong khi đó, các quy định của thị trường EU và các quy định mới của Việt Nam về việc “Không trộn lẫn nguyên liệu thủy sản có nguồn gốc từ khai thác nhập khẩu với nguyên liệu thủy sản có nguồn gốc từ khai thác trong nước vào cùng một lô hàng xuất khẩu” tại Nghị định số 37/2024/NĐ-CP và quy định xử phạt vi phạm hành chính cho hành vi này tại Nghị định số 38/2024/NĐ-CP đang khiến cho nút thắt này thêm tắc nghẽn.
Ngoài những khó khăn này, xuất khẩu cá ngừ cũng gặp áp lực cạnh tranh mới khi EU và Thái Lan đã bước sang vòng đàm phán tiếp theo và có thể tiến tới ký kết ETFTA.
VASEP phân tích, sau khi Hiệp định Thương mại Tự do giữa EU và Việt Nam (EVFTA) có hiệu lực, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam sang EU tăng trưởng liên tục. Kim ngạch xuất khẩu tăng từ 136 triệu USD năm 2020 lên 176 triệu USD năm 2023, tăng 30%. Bước sang năm 2024, xuất khẩu sang khối thị trường này vẫn tiếp tục tăng trưởng khả quan. Tính đến hết tháng 4.2024, kim ngạch xuất khẩu cá ngừ sang EU đạt gần 67 triệu USD, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2023.
Việt Nam hiện đang là nguồn cung cá ngừ lớn thứ 7 cho thị trường EU sau Ecuador, Seychelles, Papua New Guinea, Mauritius, Philippines và Trung Quốc. Trong khi Thái Lan đứng thứ 17, nhưng so với Thái Lan, năng lực sản xuất của Việt Nam còn thấp hơn nhiều.
Còn về phía Thái Lan, sau khi không còn được hưởng ưu đãi từ Hệ thống thuế quan phổ cập (GSP) vào năm 2015, xuất khẩu cá ngừ của Thái Lan sang EU sụt giảm liên tục. Kim ngạch xuất khẩu cá ngừ của nước này sang EU giảm từ mức 155 triệu USD năm 2015 xuống còn 41 triệu USD vào năm 2023, giảm 74%.
Chính vì vậy, nếu FTA giữa EU và Thái Lan được ký kết, EU có khả năng sẽ tiếp cận thị trường thủy sản Thái Lan với mức thuế 0%, bao gồm cá ngừ. Tính đến thời điểm này, cá ngừ Thái Lan xuất khẩu sang EU đang chịu thuế 24% - mức thuế cao nhất so với thế giới, sau sự việc Thái Lan bị mất quyền lợi thuế từ GSP của EU vào năm 2015. Hiện Thái Lan chỉ xuất khẩu một lượng nhỏ cá ngừ vây vàng sang EU để phục vụ chế biến.
Theo số liệu thống kê, Thái Lan có khả năng cung cấp 600.000 tấn cá ngừ đóng hộp mỗi năm, cao hơn Việt Nam. Tuy nhiên, khác với Việt Nam, Thái Lan không có đội tàu đánh bắt. Do đó, nước này chủ yếu dựa vào nguyên liệu nhập khẩu chứ không phải từ đánh bắt.
Chuyên gia Nguyễn Hà nhận định,nếu so sánh về nguồn nguyên liệu có nguồn gốc thuần túy (cá ngừ do đội tàu quốc gia đánh bắt được), Việt Nam đang có lợi thế hơn nhưng với quy mô đội tàu nhỏ nên nguồn cung nguyên liệu trong nước của Việt Nam đang không đủ để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu. Trong khi Thái Lan đã được gỡ thẻ vàng, Việt Nam vẫn chưa làm được điều này.
“Do đó, nếu ETFTA có hiệu lực, mặc dù chưa biết rõ điều khoản thỏa thuận ra sao nhưng chắc chắn xuất khẩu cá ngừ của Thái Lan sang EU sẽ thuận lợi hơn và điều này sẽ làm gia tăng áp lực cạnh tranh của cá ngừ Việt Nam tại thị trường này”, bà Hà nhấn mạnh.