Gia tăng gánh nặng ung thư, cần một chiến lược ứng phó tổng thể

Thực tế cho thấy cần có cách tiếp cận toàn diện và giải pháp tiên tiến hơn để tăng cường khả năng ứng phó bệnh ung thư tại Việt Nam.

Dù đã có nhiều tiến triển trong chẩn đoán và điều trị ung thư, nhưng tỷ lệ tử vong do ung thư vẫn chưa cải thiện trong những năm qua. Từ 164.671 trường hợp mắc ung thư vào năm 2018, số mắc mới đã tăng lên 182.563 ca vào năm 2020. Thực tế này cho thấy cần có cách tiếp cận toàn diện và giải pháp tiên tiến hơn để tăng cường khả năng ứng phó bệnh ung thư tại Việt Nam.

Ngưỡng báo động về tỷ lệ tử vong

Chia sẻ tại Hội thảo Khoa học thường niên lần thứ 23 của Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam tại Hà Nội ngày 20/8/2022, GS.TS Mai Trọng Khoa, Nguyên Phó Giám đốc Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) cho biết, tại Việt Nam, đáng lưu ý là xu hướng gia tăng thể hiện ở cả ca mắc mới và số tử vong hàng năm. “Đây thực sự là gánh nặng, thách thức cho công tác phòng chống ung thư, thậm chí gánh nặng về kinh tế, chi phí cho xã hội”, GS.TS. Khoa nhấn mạnh.

Gánh nặng điều trị bệnh ung thư là vô cùng lớn.

Gánh nặng điều trị bệnh ung thư là vô cùng lớn.

Theo GS. Khoa, số ca phát hiện mắc ung thư tăng lên là tổng hợp của nhiều yếu tố như tuổi thọ tăng, thói quen ăn uống không hợp lý, và mặt khác nhờ vào sự ra đời của các phương pháp chẩn đoán hiện đại đã giúp phát hiện ung thư hiệu quả hơn. Đối với xu hướng tăng tỷ lệ tử vong, một nguyên nhân dẫn đến tình trạng này là do nhiều người bệnh đi khám muộn, phát hiện bệnh khi đã ở giai đoạn cuối và khó khăn trong tiếp cận kịp thời với các liệu pháp điều trị tiên tiến.

Theo nghiên cứu năm 2021 của Viện Kinh tế Y tế Thụy Điển (The Swedish Institute for Health Economics – IHE), nếu không nỗ lực cải thiện việc phòng ngừa, sàng lọc phát hiện sớm và điều trị ung thư, số ca mắc mới và ca tử vong ở các nước châu Á trong đó có Việt Nam sẽ tăng từ 50% - 60% từ năm 2020 đến 2040.

Nhiều tiến bộ trong điều trị nhưng bệnh nhân còn khó tiếp cận

Liệu pháp miễn dịch đang mở ra một chương mới cho điều trị ung thư. Từ nhiều năm trước đây, các nhà khoa học đã dự đoán rằng miễn dịch có thể sẽ trở thành một trong những phương pháp điều trị quan trọng và kỳ vọng sẽ cải thiện tỷ lệ tử vong do ung thư. Do đó, các bác sĩ kỳ vọng liệu pháp miễn dịch ung thư khi được Bộ Y tế Việt Nam phê duyệt có thể thay đổi cục diện điều trị cho nhiều loại ung thư, trong đó có ung thư phổi.

TS.BS Đặng Huy Quốc Thịnh, Phó Giám đốc bệnh viện Ung Bướu TP.HCM chia sẻ: “Liệu pháp miễn dịch là một đột phá mới hiện nay. Trước khi liệu pháp miễn dịch về Việt Nam, các bác sĩ ung thư cảm thấy là những phương pháp điều trị hiện tại cho một số loại ung thư ví dụ như ung thư phổi, kết cục điều trị không được như mình mong muốn. Những dữ liệu của những thử nghiệm lâm sàng cho thấy ung thư phổi là một trong những loại ung thư mà liệu pháp miễn dịch đem lại rất nhiều lợi ích cho người bệnh”.

Hiểu rõ về cơ chế miễn dịch giúp bác sỹ cá thể hóa điều trị trên từng bệnh nhân, hiểu rõ bản chất các đột biến gen, dấu ấn sinh học liên quan đến miễn dịch, mở ra cánh cửa mới trong điều trị ung thư. Kết quả bước đầu ghi nhận có nhiều triển vọng tích cực cho tỷ lệ sống thêm.

Dù vậy, thực tế các liệu pháp tiên tiến điều trị ung thư của người bệnh còn khó tiếp cận do gánh nặng về tài chính vì các thuốc mới này chưa được đưa vào Danh mục thuốc được Quỹ Bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả.

Tại Việt Nam, quy trình phê duyệt thuốc mới từ lúc đăng ký lưu hành đến khi bệnh nhân được tiếp cận rộng rãi thông qua Quỹ BHYT chi trả là tương đối chậm so với các nước trong khu vực. Hai liệu pháp điều trị ung thư tiên tiến nhất hiện nay giúp kéo dài sự sống cho bệnh nhân là điều trị đích và liệu pháp miễn dịch. Trong đó, các thuốc điều trị đích đã được Quỹ BHYT chi trả cho các bệnh nhân phù hợp. Nhưng đã hơn 5 năm kể từ khi được giới thiệu tại Việt Nam, các liệu pháp miễn dịch vẫn chưa được xem xét phê duyệt vào Danh mục thuốc được chi trả này.

Cần những giải pháp tài chính tiên tiến

Cần những giải pháp tài chính tiên tiến

Ung thư là một bệnh rất đặc thù, có thể phòng ngừa, chữa trị nếu được phát hiện sớm. 80% nguyên nhân gây ung thư là do môi trường sống, còn lại do yếu tố bên trong (di truyền và nội tiết). Việc phòng chống ung thư bằng cách nâng cao nhận thức, tăng cường sàng lọc chẩn đoán phát hiện sớm, điều trị toàn diện đem lại hiệu quả cao, giảm gánh nặng cho xã hội, cho hệ thống y tế lẫn người bệnh. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến nghị mỗi quốc gia cần xây dựng Kế hoạch phòng chống ung thư.

Một Kế hoạch quốc gia phòng chống ung thư riêng, chúng ta sẽ có lộ trình rõ ràng để cải thiện hệ thống chăm sóc sức khỏe từ đó chẩn đoán sớm, thường xuyên cho bệnh nhân. Đồng thời, có những cơ chế để tăng ngân sách cho chẩn đoán, phát hiện và điều trị ung thư hiệu quả do tỉ lệ chi tiêu tiền túi của người dân cho chăm sóc sức khỏe tại Việt Nam vẫn ở mức rất cao là 43%.

Để tăng ngân sách cho chăm sóc sức khỏe, giảm tỉ lệ chi tiền túi của người dân, việc chuyển đổi mô hình tài chính y tế là cần thiết. Một số quốc gia như Trung Quốc đã phát triển mô hình Bảo BHYT bổ sung, với mục tiêu giúp thu hẹp khoảng cách giữa BHYT cơ bản và bảo hiểm thương mại, giảm tỉ lệ tự chi trả của bệnh nhân, giúp cải thiện khả năng tiếp cận các loại thuốc và phương pháp điều trị tiên tiến với mức phí bảo hiểm hợp lý. Mô hình BHYT bổ sung này đã đạt được những thành công bước đầu.

Hiện, Bộ Y tế đang tích cực và khẩn trương tiến hành các công tác cần thiết để sớm hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT, đảm bảo cụ thể hóa Nghị quyết số 20-NQ/TW năm 2017 về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới, trong đó, cần “đa dạng các gói BHYT; tăng cường liên kết, hợp tác giữa BHYT xã hội với BHYT thương mại”. Do vậy, Luật BHYT sửa đổi, bổ sung nên được tiếp tục nghiên cứu và xây dựng mô hình phù hợp với bối cảnh Việt Nam./.

CTV Tiểu Vân/VOV.VN

Nguồn VOV: https://vov.vn/suc-khoe/gia-tang-ganh-nang-ung-thu-can-mot-chien-luoc-ung-pho-tong-the-post1010802.vov