Góp phần quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước
Chiều 20/6, báo Đại biểu nhân dân tổ chức tọa đàm trực tuyến 'Quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước'.
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới và trong khu vực hiện đang phải đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến nguồn nước. Nhằm quản lý, bảo vệ và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1622/QĐ-TTg ngày 27/12/2022 phê duyệt Quy hoạch tài nguyên nước thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đây là một trong những cơ sở quan trọng cho việc lập các quy hoạch ngành quốc gia có khai thác, sử dụng nước, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh, mang tính chiến lược, dài hạn và tổng thể nhằm phát triển bền vững tài nguyên nước.
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả sử dụng và bảo tồn tài nguyên nước, hướng tới bảo đảm an ninh nguồn nước, dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đang được cho ý kiến tại Kỳ họp thứ năm, Quốc hội khóa XV
Việc sửa đổi Luật này nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả. Đồng thời, bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.
Bên cạnh đó, dự án Luật sẽ hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số.
Với 2 chủ đề “Nhiều thách thức về chính sách quản lý tài nguyên nước” và “Kỳ vọng vào quyết sách lớn cho nguồn nước quốc gia, tại tọa đàm, các chuyên gia, nhà quản lý đã góp ý kiến về việc quản lý nhà nước về tài nguyên nước - những khó khăn, thách thức đặt ra hiện nay. Cùng với đó, phân định chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước từ quy hoạch, điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng, bảo vệ phát triển thủy lợi…
Các đại biểu cũng đề xuất những giải pháp nhằm quản lý và phát triển bền vững nguồn tài nguyên nước, góp ý vào dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Phó Cục trưởng Cục Quản lý tài nguyên nước (Bộ Tài Nguyên và Môi trường) Ngô Mạnh Hà chia sẻ, thực trạng quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam còn rất nhiều bất cập.
Thứ nhất, có sự giao thoa chồng chéo. Trên một dòng sông có rất nhiều bộ, ngành quản lý, nhiều đạo luật có phạm vi điều chỉnh liên quan đến dòng sông. Vì vậy, công tác triển khai sẽ giảm hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý.
Bên cạnh đó, Luật Tài nguyên nước năm 1998 và năm 2012 thiếu hẳn khung pháp lý về an ninh nguồn nước. Với bối cảnh tài nguyên nước chịu nhiều áp lực nền, cộng thêm việc chưa có cơ chế rõ ràng để tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào công tác bảo vệ, phát triển tài nguyên nước trong bối cảnh điều kiện - nguồn lực đầu tư cho ngành nước cực kỳ hạn chế.
Thứ hai, việc sử dụng nước không hiệu quả và việc chưa tính toán đầy đủ giá trị của tài nguyên nước trong các hoạt động phát triển kinh tế-xã hội. Khâu thực thi pháp luật ở địa phương còn chưa nghiêm và nhiều tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên nước chưa hợp lý và chưa đúng các quy định về pháp luật. Vì vậy, vấn đề sửa đổi hệ thống pháp luật về tài nguyên nước là rất cấp bách.
Theo thống kê, cả nước hiện có hơn 900 hệ thống công trình thủy lợi với khoảng 70.000 công trình gồm 6.750 hồ chứa nước, gần 20.000 trạm bơm, gần 300.000 km kênh mương và hàng chục nghìn km đê sông, đê biển.
Việc quản lý nhà nước từ quy hoạch, điều tra cơ bản, thăm dò, khai thác, sử dụng, bảo vệ phát triển thủy lợi chiếm một tỷ lệ rất lớn trong quản lý nguồn nước. Do vậy, nếu không làm rõ và phân định chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên nước sẽ làm giảm hiệu quả hoạt động do sự chồng chéo về nhiệm vụ.
Việt Nam hiện có 3.450 con sông, suối có tổng chiều dài từ 10km trở lên, với tổng lượng nước khoảng 7.936 tỷ m3, tức là trung bình cả năm 936.000 tỷ m3.
Với lượng tài nguyên như vậy, nếu xét theo bình quân đầu người, Việt Nam không phải quốc gia thiếu nước.
Tuy nhiên, xét về sản lượng nước nội sinh chỉ chiếm khoảng 40%, và 60% xuất phát từ nước ngoài, Việt Nam đang là quốc gia thiếu nước khi chỉ đạt 4.421 m3/người/năm, thấp hơn nhiều so với mức trung bình của Đông Nam Á là 4.900 m3/người/năm.