Hậu quả khi người đứng đầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm hình sự

Xin hỏi, khi người đứng đầu doanh nghiệp vi phạm pháp luật, phải chịu trách nhiệm hình sự thì hợp đồng quảng cáo sản phẩm với cơ quan báo chí còn hiệu lực không? (Câu hỏi của bạn Nguyễn Thanh Hoa - Thái Bình)

Khi người đứng đầu chịu trách nhiệm hình sự. Ảnh ITN

Khi người đứng đầu chịu trách nhiệm hình sự. Ảnh ITN

Với nội dung này, Luật sư Trần Thị Khánh Hương (Đoàn Luật sư TP. Hà Nội) tư vấn như sau:

Trách nhiệm hình sự là một dạng trách nhiệm pháp lý. Là trách nhiệm của người khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong pháp luật hình sự bằng một hậu quả bất lợi do Tòa án áp dụng tùy thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi mà người đó thực hiện.

Trước tiên, chúng ta cần hiểu rõ, trách nhiệm hình sự đối với cá nhân khác với trách nhiệm hình sự đối với doanh nghiệp (pháp nhân thương mại – đối tượng phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Bộ luật hình sự năm 2015). Pháp luật hình sự quy định trách nhiệm của cá nhân và pháp nhân là khác nhau

Đối với cá nhân, khi thỏa mãn tất cá các điều kiện sau đây thì một cá nhân phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự:

+ Đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội được Bộ luật hình sự bảo vệ

+ Hành vi được Bộ luật hình sự quy định là tội phạm

+ Người đó có năng lực Trách nhiệm hình sự

+ Người đó đủ tuổi chịu Trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật có quy định khác; Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định.

+ Người đó có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đó

Đối với pháp nhân, căn cứ khoản 1, Điều 12, Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như sau:

"Điều 12. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật."

Căn cứ Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp như sau:

"Điều 13. Trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

1. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp có trách nhiệm sau đây:

a) Thực hiện quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp;

b) Trung thành với lợi ích của doanh nghiệp; không lạm dụng địa vị, chức vụ và sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh, tài sản khác của doanh nghiệp để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;

c) Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho doanh nghiệp về doanh nghiệp mà mình, người có liên quan của mình làm chủ hoặc có cổ phần, phần vốn góp theo quy định của Luật này.

2. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm cá nhân đối với thiệt hại cho doanh nghiệp do vi phạm trách nhiệm quy định tại khoản 1, Điều này."

Pháp nhân Việt Nam hiện nay bao gồm hầu hết các loại hình doanh nghiệp, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội... Bộ Luật Hình sự 2015 không điều chỉnh tất cả với tư cách là tội phạm. Điều 2, Bộ Luật Hình sự 2015 quy định rõ: “Chỉ pháp nhân thương mại nào phạm một tội đã được quy định tại Điều 76 của Bộ luật này mới phải chịu trách nhiệm hình sự”, điều này khẳng định chỉ pháp nhân thương mại mới bị xem là tội phạm. Pháp nhân thương mại theo Điều 75 Bộ luật Dân sự 2015 là “Pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên”. Như vậy, pháp nhân thương mại Việt Nam chính là các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế.

Thứ nhất, Theo Điều 75 Bộ Luật Hình sự, Pháp nhân thương mại chỉ chịu trách nhiệm hình sự khi thỏa mãn các điều kiện:

+ Hành vi phạm tội nhân danh pháp nhân thương mại. Hành vi được thực hiện bởi một hoặc các cá nhân của pháp nhân nhưng nhân danh pháp nhân, sử dụng tên, con dấu của pháp nhân. Như vậy, việc xác định trách nhiệm hình sự của pháp nhân dựa trên hành vi vi phạm của một cá nhân – thường là người điều hành, lãnh đạo pháp nhân.

+ Hành vi phạm tội vì lợi ích của pháp nhân. Mục tiêu của hành vi phạm tội phải nhằm thỏa mãn nhu cầu về lợi ích kinh tế, tìm kiếm lợi nhuận của pháp nhân.

+ Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân thương mại. Những hành vi phạm tội này được thực hiện dựa trên quyết định, kế hoạch được phê duyệt bởi pháp nhân.

+ Hành vi phạm tội chưa hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với loại tội phạm đó.

Thứ hai, về loại tội phạm áp dụng đối với pháp nhân thương mại theo Bộ Luật hình sự 2015 của nước ta, pháp nhân phải chịu trách nhiệm hình sự về 31 tội, được chia làm 2 nhóm:

- Nhóm tội phạm trong lĩnh vực kinh tế: Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản); Điều 234 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã).

- Nhóm tội phạm trong lĩnh vực môi trường: Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội hủy hoại nguồn lợi thủy sản); Điều 243 (tội hủy hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại);

- Năm 2017, Luật Sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của Bộ Luật Hình sự năm 2015 đã bổ sung thêm 02 tội danh, đó là Tội tài trợ khủng bố (Điều 300) và Tội rửa tiền (Điều 324).

Thứ ba, về hình phạt đối với pháp nhân thương mại.

Theo Điều 33, Bộ Luật Hình sự năm 2015, hình phạt áp dụng cho pháp nhân bao gồm 2 loại là hình phạt chính và hình phạt bổ sung, theo nguyên tắc “đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”.

Hình phạt chính bao gồm:

+ Hình phạt tiền (Điều 77): Hình phạt này được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng không được thấp hơn 50.000.000 đồng - cao hơn nhiều so với trách nhiệm hành chính.

+ Đình chỉ hoạt động có thời hạn (Điều 78): Đình chỉ hoạt động có thời hạn là tạm dừng hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe con người, môi trường hoặc an ninh, trật tự, an toàn xã hội và hậu quả gây ra có khả năng khắc phục trên thực tế; Thời hạn đình chỉ hoạt động từ 06 tháng đến 03 năm.

+ Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn (Điều 79): Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn là chấm dứt hoạt động của pháp nhân thương mại trong một hoặc một số lĩnh vực mà pháp nhân thương mại phạm tội gây thiệt hại hoặc có khả năng thực tế gây thiệt hại đến tính mạng của nhiều người, gây sự cố môi trường hoặc gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội và không có khả năng khắc phục hậu quả gây ra; Pháp nhân thương mại được thành lập chỉ để thực hiện tội phạm thì bị đình chỉ vĩnh viễn toàn bộ hoạt động.

Hình phạt bổ sung bao gồm:

+ Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định (Điều 80): Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án tiếp tục kinh doanh hoặc hoạt động trong lĩnh vực đó, thì có thể gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người hoặc cho xã hội; Tòa án quyết định lĩnh vực cụ thể, thời gian bị cấm kinh doanh hoặc cấm hoạt động.

+ Cấm huy động vốn (Điều 81): Cấm huy động vốn được áp dụng khi xét thấy nếu để pháp nhân thương mại bị kết án huy động vốn thì có nguy cơ tiếp tục phạm tội, gồm: Cấm vay vốn ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc các quỹ đầu tư; Cấm phát hành, chào bán chứng khoán; Cấm huy động vốn khách hàng; Cấm liên doanh, liên kết trong và ngoài nước; Cấm hình thành quỹ tín thác bất động sản.

Ngoài ra, Bộ Luật Hình sự còn quy định các biện pháp tư pháp áp dụng cho pháp nhân phạm tội (Điều 82).

Như vậy, phạm vi một người phải chịu trách nhiệm hình sự do cá nhân đó phạm tội khác với một người là đại diện theo pháp luật đứng đầu doanh nghiệp chịu trách nhiệm khi doanh nghiệp có hành vi vi phạm bị kết tội và chịu trách nhiệm hình sự. Trường hợp cá nhân đó thực hiện hành vi mang danh nghĩa của cá nhân thì không thể đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân ngay cả khi họ là người đại diện hợp pháp của pháp nhân.

Khi người đứng đầu doanh nghiệp vi phạm pháp luật, phải chịu trách nhiệm hình sự đây là trách nhiệm hình sự đối với cá nhân người đó. Còn hợp đồng quảng cáo sản phẩm (và hợp đồng nói chung) do cá nhân hoặc tổ chức ký với doanh nghiệp vẫn còn hiệu lực do ký với pháp nhân chứ không phải ký với tư cách cá nhân người đó. Khi người đó không còn là người đại diện của doanh nghiệp do phải chịu trách nhiệm hình sự thì doanh nghiệp vẫn tiếp tục hoạt động và bổ nhiệm người đại diện mới theo quy định pháp luật. Các hoạt động của doanh nghiệp vẫn tiến hành bình thường trong đó có các hợp đồng đã ký kết trước đó.

Do đó, khi cơ quan báo chí ký hợp đồng quảng cáo sản phẩm cho doanh nghiệp nếu người đứng đầu doanh nghiệp vi phạm pháp luật, phải chịu trách nhiệm hình sự thì hợp đồng quảng cáo sản phẩm vẫn còn hiệu lực và không bị ảnh hưởng.

Thái Yến ghi

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/phap-luat-va-doi-song/hau-qua-khi-nguoi-dung-dau-doanh-nghiep-phai-chiu-trach-nhiem-hinh-su-i328739/