Ngành nông nghiệp nhìn lại một năm vượt khó
Những khó khăn bao trùm từ sản xuất trong nước đến xuất khẩu, nhưng ngành nông nghiệp đã nỗ lực bám sát thực tiễn, vượt qua khó khăn, triển khai các giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại ngành.
Dịch tả lợn châu Phi diễn biến phức tạp và bùng phát trên tất cả các tỉnh thành cả nước; giá nhiều mặt hàng nông sản giảm mạnh và chịu tác động từ chiến tranh thương mại giữa các nước lớn, nhất là việc thay đổi các quy định về nhập khẩu của thị trường Trung Quốc...
Những khó khăn bao trùm từ sản xuất trong nước đến xuất khẩu, nhưng ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn đã nỗ lực bám sát thực tiễn, vượt qua khó khăn, triển khai các giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại ngành gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên tất cả các lĩnh vực.
*Xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt kỷ lục mới
Ngay từ đầu năm, ngành nông nghiệp xác định năm nay là năm đặc biệt khó khăn trong trong xuất khẩu nông sản. Bởi vậy, việc mở cửa thị trường, xúc tiến thương mại nông lâm thủy sản đã được ngành đặc biệt chú trọng, kịp thời giải quyết các vướng mắc để thúc đẩy xuất khẩu nông lâm thủy sản sang các thị trường tuyền thống và mở rộng thêm đối với các thị trường có tiềm năng. Nhờ vậy, số doanh nghiệp được phép xuất khẩu thủy sản sang EU, Hàn Quốc, Trung Quốc, Liên bang Nga... liên tục tăng.
Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản cho biết, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tích cực đàm phán để có thêm các loại quả tươi có giá trị cao xuất khẩu sang các thị trường Hoa Kỳ, Australia, Nhật Bản, Trung Quốc... Điển hình như xoài trở thành loại quả tươi thứ 6 của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ sau vải, nhãn, chôm chôm, vú sữa và thanh long; quả vải cũng chính thức vào thị trường Nhật Bản…
Đặc biệt với thị trường lớn nhất, truyền thống là Trung Quốc đã thay đổi nhiều chính sách trong nhập khẩu, ngành đã tập trung tháo gỡ các vướng mắc để thúc đẩy xuất khẩu một số mặt hàng như yến sào, sắn, trái cây, thủy sản...; phổ biến tới cộng đồng doanh nghiệp các thông tin, nghiệp vụ về an toàn thực phẩm, kiểm dịch thực vật, các quy định kiểm soát xuất nhập khẩu nông sản tại thị trường này.
Đến nay, Trung Quốc đã chấp thuận nhập khẩu 9 loại trái cây, 48 loài thủy sản sống và 128 loại sản phẩm thủy sản sơ chế, chế biến được từ Việt Nam. Tiêu biểu là Nghị định thư cho mặt hàng sữa và sản phẩm sữa của Việt Nam đã đưa sữa tươi gia nhập vào thị trường đông dân nhất thế giới này.
Với thủy sản, tin vui nhất là sau hơn 3 năm nỗ lực hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền, tập huấn cho nông dân; xây dựng hệ thống chế biến bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm, Bộ Nông nghiệp Hoa kỳ đã chính thức công bố quyết định công nhận tương đương hệ thống kiểm soát an toàn thực phẩm cá da trơn của Việt Nam xuất khẩu sang Hoa kỳ.
Việc Hoa Kỳ công nhận tương đương đối với sản phẩm cá tra này đã giúp Việt Nam bổ sung doanh nghiệp đăng ký xuất khẩu cá tra vào Hoa Kỳ và quan trọng hơn là tạo niềm tin cho nhà nhập khẩu Hoa kỳ yên tâm nhập khẩu sẽ gia tăng sản lượng, giá trị xuất khẩu cá tra vào thị trường này thời gian tới.
Riêng lĩnh vực lâm nghiệp, kim ngạch xuất khẩu năm nay có thể đạt 11,3 tỷ USD, vượt mục tiêu đề ra. Cùng với phát triển thị trường, Hiệp định Đối tác tự nguyện giữa Việt Nam và EU về Thực thi luật lâm nghiệp, quản trị rừng và thương mại lâm sản (VPA/FLEGT) đã được ký kết và có hiệu đã gửi một tín hiệu mạnh mẽ về cam kết của Việt Nam không chỉ với EU mà tất cả các thị trường mà Việt Nam đang có thương mại về lâm sản về sự minh bạch, đảm bảo nguồn gốc sản phẩm hợp pháp và hướng đến bền vững.
Tuy có nhiều điểm sáng trên, nhưng những khó khăn về thị trường, giá nhiều mặt hàng nông sản giảm từ 10 - 15%, đặc biệt các sản phẩm Việt Nam đứng tốp đầu thế giới như tiêu, điều, cà phê... nên tổng kim ngạch xuất khẩu nông lâm thủy sản năm 2019 dự kiến đạt 41,3 tỷ USD, tăng khoảng 3,5% so với với năm 2018. Thặng dư thương mại toàn ngành ước đạt mức kỷ lục 9,9 tỷ USD, cao hơn 1,12 tỷ USD so với năm 2018.
*Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại
Dịch tả lợn châu Phi xảy ra tại 63 tỉnh, thành phố đã phải tiêu hủy gần 5,95 triệu con với trọng lượng trên 340 nghìn tấn, chiếm 9% tổng trọng lượng lợn cả nước. Sự chủ động, quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương trong phòng, chống dịch tả lợn châu Phi nên đã phát huy hiệu quả, dịch bệnh có xu hướng giảm trong những tháng cuối năm.
Bên cạnh đó, ngành cũng đẩy mạnh hướng dẫn người chăn nuôi đẩy mạnh sản xuất một số vật nuôi chủ lực khác, đặc biệt là gia cầm, thủy sản; đồng thời có kế hoạch tái đàn tại những vùng chưa có dịch, đủ điều kiện chăn nuôi an toàn sinh học. Nhờ vậy, chăn nuôi trâu, bò, gia cầm phát triển khá tốt như: thịt gia cầm đạt 1,3 triệu tấn, tăng 15% (tăng 145 nghìn tấn), trứng gia cầm tăng 12% (tăng 1,4 tỷ quả)... bù đắp cho sự sụt giảm cung thịt lợn, ổn định thị trường.
Năm 2019, cả nước có 36.000 trang trại theo tiêu chí mới, tăng 500 trang trại so với năm 2018; các trang trại ngày càng sử dụng nhiều đất đai, lao động và sản xuất lượng nông sản hàng hóa lớn; tổ chức sản xuất theo chuỗi, hợp tác liên kết quy mô lớn tiếp tục được nhân rộng ở các lĩnh vực và nhiều địa phương.
Nhận ra những khó khăn, thách thức từ thị trường, điều kiện sản xuất, ngành nông nghiệp đã chủ động triển khai rà soát, điều chỉnh chiến lược, quy mô và cơ cấu sản xuất phù hợp với lợi thế, nhu cầu thị trường và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nhiều địa phương đã xây dựng chuỗi liên kết chặt chẽ giữa người sản xuất với các doanh nghiệp trong chế biến, tiêu thụ sản phẩm để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đối với lĩnh vực sản xuất lúa, tỷ lệ sử dụng giống lúa chất lượng cao và việc cơ cấu lại ngành hàng lúa gạo có nhiều chuyển đổi mạnh mẽ. Tỷ trọng gạo chất lượng cao chiếm trên 80% gạo xuất khẩu, vì vậy đã nâng giá gạo xuất khẩu bình quân tăng từ 502 USD/tấn năm 2018 lên 510 USD/tấn năm 2019.
Các quy trình sản xuất tiên tiến, thân thiện với môi trường như VietGAP, GlobalGAP... được phổ biến nhân rộng ở nhiều địa phương. Năm 2019 diện tích được chứng nhận VietGAP là 39,3 nghìn ha. Cả nước đã triển khai xây dựng và phát triển mô hình chuỗi với 1.484 chuỗi (tăng 388 chuỗi so với năm 2018), 2.374 sản phẩm (tăng 948 sản phẩm) và 3.267 địa điểm bán sản phẩm đã kiểm soát theo chuỗi nông sản an toàn thực phẩm theo chuỗi.
Đồng thời, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cùng các địa phương, doanh nghiệp đang tiến hành xây dựng các chuỗi liên kết một số sản phẩm chủ lực như: cá tra ba cấp chất lượng cao vùng Đồng bằng sông Cửu Long; ngành hàng lâm sản chủ lực; ngành hàng lúa gạo của 10.000 hộ trồng lúa ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
* Cơ cấu lại nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng
Trong giai đoạn tới, trước các bối cảnh và yêu cầu mới, ông Nguyễn Văn Việt, Vụ trưởng Vụ Kế hoạch, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết, định hướng tổng thể phát triển ngành là tiếp tục cơ cấu lại nông nghiệp gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và xây dựng và nông thôn mới; tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị với 3 nhóm sản phẩm chủ lực.
Ngành sẽ tiếp tục phối hợp với các địa phương khai thác và tận dụng tốt lợi thế nền nông nghiệp nhiệt đới, xây dựng và phát triển vùng chuyên canh hàng hóa chất lượng cao, quy mô lớn đạt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm; kết nối nông nghiệp với công nghiệp chế biến, bảo quản và thị trường, xuất khẩu, với chuỗi giá trị toàn cầu.
Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nguyễn Xuân Cường cho hay, thời gian tới, ngành nông nghiệp sẽ phát triển các cụm liên kết sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản tại các địa phương, vùng miền có sản lượng nông sản lớn, thuận lợi giao thông, lao động, logistics, có tiềm năng trở thành cực động lực tăng trưởng cho cả khu vực. Lựa chọn các doanh nghiệp “đầu tàu” có đủ năng lực (vốn, khoa học công nghệ, thị trường) để dẫn dắt chuỗi liên kết vận hành một cách thông suốt, hiệu quả.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng, thuận lợi cho đầu tư vào chế biến nông lâm thủy sản. Theo đó, ngành nông nghiệp xây dựng Chiến lược phát triển chung về công nghiệp chế biến nông sản và các Đề án phát triển chế biến các ngành hàng có tiềm năng về sản xuất và thị trường tiêu thụ như: rau quả, thủy sản, đồ gỗ,… để định hướng lâu dài cho doanh nghiệp tập trung đầu tư phát triển mạnh những ngành hàng này.
Cùng đó, xem xét bãi bỏ các rào cản, các thủ tục hành chính, quy định điều kiện kinh doanh không cần thiết, bất hợp lý; hoàn thiện chính sách thu hút đầu tư đối với từng địa bàn có tính đặc thù của các vùng, miền và ngành hàng.
Đồng thời, xây dựng khung pháp lý và có chính sách hỗ trợ giao dịch đất nông nghiệp; cho phép mua, thuê lại đất của nông dân để doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất chuyên canh nông sản hàng hóa quy mô lớn, đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu cho chế biến cũng như xây dựng nhà máy....
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Xuân Cường, ngành cũng sẽ phát triển các công ty, tập đoàn lớn hiện đại, mang tầm cỡ quốc tế, có sức cạnh tranh cao về chế biến các ngành hàng nông, lâm, thủy sản và phát triển các doanh nghiệp chế biến quy mô nhỏ và vừa để tiêu thụ sản phẩm nông sản tại chỗ cho người nông dân. Song với đó, tập trung phát triển chế biến đối với những ngành hàng chưa có hoặc còn thiếu công suất, những ngành hàng là các sản phẩm nông sản chủ lực quốc gia...
Năm 2020 là năm có ý nghĩa quan trọng, bứt phá, về đích hoàn thành Kế hoạch 5 năm 2016 - 2020. Để thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, toàn ngành xác định “Xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, hội nhập quốc tế, thích ứng với biển đổi khí hậu, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, gắn với xây dựng nông thôn mới phồn vinh và văn minh”. Đồng thời, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng GDP ngành trên 2,8 - 3%, kim ngạch xuất khẩu trên 42 tỷ USD./.
Nguồn Bnews: http://bnews.vn/nganh-nong-nghiep-nhin-lai-mot-nam-vuot-kho/143036.html