Nhờ lực của Bát-nhã

Vô lượng đời về trước, ở nước Tỳ-ma-đại, trong núi Tỷ-đà, có mộtcon Dã can bị một con sư tử rượt bắt. Nó sợ hãi chạy, chẳng may rớt xuống giếngkhông thể lên được.

Như pháp tu hành quả Phật nhanh - Ảnh minh họa

Đến ngày thứ ba, nghĩ mình không thoát được chết, mới làmbài tụng:

Thảm kịch! Ngày nay khổ đến cùng

Chắc là mấtmạng tại nơi đây

Vạn vật, vô thường không thoát được

Biết thế hiếnthân sư tử rồi.

Than ôi!Thân tội ách nạn gì

Tiếc thamthân mạng, chết không công

Không công mà chết đà đáng giận

Lại để thânnhơ giếng của người.

Nam-mô sám hối Phật mười phương

Chứng biếtlòng con đã sạch rồi

Đời trước lỡgây ba nghiệp tội

Thân này nay nguyện trả đền xong.

Các tội hếtrồi ba nghiệp trong

Tâm cần bất động, niệm thật chân

Từ đây kiếpkiếp minh sư gặp

Như pháp tu hành quả Phật nhanh.

Trời Đế Thíchlúc ấy đang ở trên cung trời Đao Lợi, nghe đến chữ Phật, dựng tóc, bừng dậy, nhớPhật xưa, nhận ra mình đơn thân không thầy dạy, hiện tại đang đắm chìm trongngũ dục, không vượt nổi ngục ái... Nghĩ rồi, nước mắt trào ra, liền cùng tám vạnchúng thiên bay xuống nơi phát ra chữ Phật.

Đến bờ giếng,thấy Dã can hai tay bấu đất không lên được, liền nghĩ: “Thánh nhân ứng hiện nhiêùphương cách, tuy là hình tướng Dã can, nhưng đó là Bồ-tát, chẳng phải kẻ phàmtình”. Suy nghĩ rồi mới làm bài kệ thỉnh cầu:

Nay xin giảiđáp chỗ tôi nghi

Cũng muốnchư thiên nhận pháp nghì

Thánh giáolâu rồi không được gặp

Ở chốn mịt mờ,thầy cũng không.

Lời của Thượngnhân chẳng phải phàm

Xin ban pháp giáo giúp chúng con.

Dã can nghe kệ ngước lên trả lời:

Ngài làm Thiênđế ai dạy đâu

Nên rất ngạosi, chẳng biết thời

Pháp sư ngôìdưới, mình trên ấy

Cung kính đãkhông, hỏi pháp gì!

Pháp như cam lộ, người được cứu

Ngạo mạn làmsao có được đây?

Thiên đế nghe xong hổ thẹn về sự vô ý của mình, liềnbảo chư thiên thòng thiên y xuống để Dã can nương đó leo lên, rồi vòng tay cúiđầu làm kệ sám hối, xin tha tội:

Chư Thiên thậtđúng như thầy dạy

Ngũ dục triềnmiên vô độ mê

Thảy vìkhông có thầy hay giỏi

Giảng nói khổ,vui, thường, vô thường.

Nói kệ rồi,cùng chư Thiên dâng cúng cam lộ.

Dã can không ngờtrong họa lại gặp phước, tâm tình phấn khởi vui mừng, tự xét bản thân tuy là Dãcan, loài xấu xa thô tệ nhất trong đường súc sinh, nhưng nhờ sức trí tuệ mà đượcnhư hiện tại. Đáng mừng là đã có cơ hội hoằng pháp để thành tựu công đức chochính mình. Xét rồi, chợt nghĩ đến lực của Bát-nhã và nhớ đến Hòa thượng tiênsư. Nhờ công đức, trí tuệ và phương tiện dạy bảo của Hòa thượng mà ngày naychiêu cảm được công đức hiện tại, mới cảm thán kêu thầm: “Cung thỉnh thầy ta!Cung thỉnh thầy ta! Nam-mô Bát-nhã ! Nam-mô Bát-nhã! Tuy con làm tội sinh trongác thú, nhưng con vẫn nhớ được đời trước và biết được nghiệp duyên của mình, lànhờ lực của Bát-nhã. Đã cảm hóa được chư thiên giáng thần, đến để tiếp tế cungdưỡng, lại còn được thỏa lòng hoằng pháp”.

Về phần ĐếThích, khi nghe Dã can nói đến việc thuyết pháp thì lòng rất vui mừng, liền dạychư Thiên tỏ lòng kính cẩn cầu xin thầy thuyết pháp. Chư Thiên vâng lệnh, môĩngười kính cẩn trịch vai áo bên hữu, đồng bao quanh Dã can, rồi quỳ xuống chắptay cùng nói kệ:

Hay thay,hay thay!

Hòa thượngDã can

Xin ngài nóipháp

Khai hóa chưthiên

Cõi thiên mờmịt

Mê đắm ngũ dục

Hằng sợ phướchết

Vô thườngkéo lôi

Chết đọa ácthú

Khó ngày rakhỏi

Đã lâu đời lắm

Mấy muôn ứcnăm

Nay mới gặpmột

Ruộng phướctốt lành

Xin thâỳthương xót

Nói pháp chonghe

Trời người đặngphước

Chúng sinh đêùđược

Nguyện cùngHòa thượng

Vĩnh kiếptheo nhau

Đến khithành Phật

Thường kếtduyên lành

Minh sư khógặp

Nên phải thềnguyền.

Dã can thấy chưThiên ưa thích nghe pháp và ân cần khuyến thỉnh, lòng vui mừng gấp bội, bèn dạyhọ sắm sửa tòa cao rồi trang sức cho thanh tịnh, và thỉnh pháp sư thuyết pháp.Vì kinh pháp vốn tôn quý, không thể không dùng tâm tôn quý ra lãnh hội, nên cầnlập tòa thuyết pháp trang nghiêm. Chư Thiên nghe dạy, liền dùng áo làm thànhtòa cao, nghiêm sức thanh tịnh rồi, thỉnh thầy Dã can lên tòa thuyết pháp.

Nhân duyên thuyết pháp

Đầu tiên Dã cannêu nhân duyên thuyết pháp:

- Ta naynói pháp, chính vì hai nhân duyên lớn. Thế nào là hai? Một, vì thuyết pháp khaihóa chư thiên thì được phước không thể lường. Hai, vì cái duyên thí cho ăn,không thể không nói.

Đế Thích nghe vậy liền tỏ lời phản đối. Với ông,trong thiên hạ ai cũng cầu an, thích sống, không muốn chết. Do vậy công cứu mạngDã can mới là thật lớn, chẳng phải công thuyết pháp khai hóa, sao lại không nóinhờ công cứu mạng mà thuyết pháp, lại nói vì công đức thuyết pháp lớn mà thuyếtpháp.

Dã can giảithích:

- Thích sống,thích chết ở mỗi người thảy đều không giống nhau. Có người tham sống, có ngươìkhông sợ chết. Kẻ tham sống nói đây là kẻ sống đời ngu si, chẳng biết chết rôìsinh lại trong đời sau, trái Phật xa pháp, không gặp minh sư, làm các việc sát,trộm, dâm, dối. Hễ gặp việc ác liền theo. Hạng người này tham sống sợ chết. Ngươìkhông sợ chết nói đây là người muốn gặpminh sư, muốn phụng sự ngôi Tam bảo, cải dữ làm lành, hiếu dưỡng cha mẹ, kínhthờ Thầy Tổ, hòa thuận vợ con, với tôi tớ quyến thuộc đều không có tâm coi thường.Hạng này không tham sống. Vì sao? Vì người lành chết đi, nhờ phước đã tu tạo sẽsinh lên cõi trời, hưởng năm việc dục lạc, nên chẳng sợ chết. Còn người dữ chếtđi, sẽ vào địa ngục, chịu khổ không cùng. Người lành không sợ chết, vì như tùra khỏi ngục. Người dữ sợ chết, vì như tù vào trong ngục.

Thiên đế nghexong, thông được tâm, bèn xin pháp sư Dã can giảng giải khai thị hai nhân duyênvừa nêu, xin Dã can cho biết thí thực và thí pháp có công đức gì?

Dã can trả lời:

- Bố thí ăn uống,có thể giúp mạng sống trong một ngày. Bố thí của quý, có thể giúp không thiêúthốn trong một đời. Cả hai tuy đều là pháp giúp người nhưng cũng là nhân duyênràng buộc thêm lớn đường sinh tử. Thuyết pháp giáo hóa, gọi là pháp thí có thểkhiến cho chúng sinh được đạo xuất thế. Đạo xuất thế có ba pháp là A-la-hán, Bích-chiPhật và Phật đạo. Ba pháp ấy đều phải nhờ nghe pháp, y pháp tu hành, sau mới chứngquả. Chưa kể, chúng sinh thoát được cái khổ trong ba đường ác, được hưởng cáivui cõi trời người cũng là nhờ nghe pháp. Cho nên, Phật dạy bố thí pháp thì đượccông đức lớn.

Đế Thích thưa:

- Xin hỏi thânhiện nay của thầy là do nghiệp báo mà có, hay là thân do ứng hóa mà hiện?

Dã can trả lời:

- Là thân nghiệpbáo, chẳng phải là thân ứng hóa.

Chư Thiên nghexong, lấy làm kinh hãi, thưa với Dã can:

- Chúng con vẫntưởng là hóa thân của Bồ-tát ứng hóa cứu đời. Nay lại nghe là thân nghiệp báo.Có thể xin thầy nói rõ nhân duyên vì sao có thân đó chăng?

Do nhân duyênđó, Dã can nói về tiền kiếp của mình.

Thuật lại đời quá khứ

Vào đời thượngcổ, trong thành Ba-đầu-ma, nước Ba-la-nại, có cậu bé nghèo dòng Sát-đế-lợi tênA-dật-đa, 12 tuổi đã theo minh sư vào ở chốn thâm sơn, nhọc nhằn hầu hạ. Tuy tuôỉcòn nhỏ nhưng hâm mộ nghiên cứu học hành. Thầy cũng tận tình dạy bảo. Trải qua50 năm thì 96 món kinh, thơ, ký, luận, phương y, chú thuật, xem tướng kiết,hung, tai, dị, họa, phước, không món nào mà không biết. Thành tựu được các thứđó rồi, A-dật-đa muốn bán thân đền trả ơn thầy. Nhưng thầy không cho, chỉ dặndò “Đã thành tựu trí tuệ biện tài thì nên đi giáo hóa thiên hạ. Vì pháp mà làmngọn đèn sáng. Công giáo hóa ấy đã đủ trả ơn ta. Hãy đi khất thực nuôi sống tựthân. Không nên bán thân cúng dường ta”. A-dật-đa y đó làm theo.

Không bao lâu sau, quốc vương nước Ba-la-nại bănghà. Cuộc thi khảo chọn người tài làm vua diễn ra trong bảy ngày và A-dật-đa đượcchọn. Biết ở ngôi vua mà không làm chủ được thân tâm, khiến bá tánh khổ sở, sẽđọa vào địa ngục như tên bắn, nhưng vì muốn có điều kiện báo ơn thầy nên ông ralàm vua. Thầy được mời về cung cúng dường và dạy pháp. Pháp Thập thiện đượctruyền dạy khá rộng trong quan dân.

Thời ấy có hainước láng giềng đấu đá nhau không phân thắng bại. Một trong hai nước nghĩ racách dâng ngọc ngà châu báu và gái đẹp cho A-dật-đa để tìm viện binh. A-dật-đanhận lời, nước kia bị tàn sát, A-dật-đa rơi vào cái nạn gái đẹp. Quan quân theođó mê loạn, gió mưa không còn đúng thời, nhân dân đói khổ, đất nước đi đến chỗdiệt vong.

A-dật-đa sau khi chết thì sinh trong địa ngục,thân chịu khổ nhọc vô vàn, nhưng nhờ lực trí tuệ của đời trước, nhớ lại tội lôĩcủa mình, nên tâm tự phát lồ sám hối bỏ dữ làm lành. Chỉ trong chốc lát, hếtthân địa ngục đến thân ngạ quỷ. Lại tiếp tục phát lồ sám hối và phát nguyệnchuyên tu Thập thiện, lại thoát thân ngạ quỷ vào thân súc sinh, làm Dãcan.

Nhờ lực trí tuệđã có, nên tuy làm Dã can mà vẫn hành Thập thiện và đi giáo hóa kẻ hữu duyên.Chẳng may gặp sư tử, lọt vào giếng sâu, và xảy ra nhân duyên hiện tại.

Dã can thuyết pháp giải nghi

Kể xong, mới nói với Đế Thích:

- Nếu ngươikhông cứu ta thì bỏ thân này, ta sinh lên cõi trời, hết khổ được vui. Thế nên,ta nói ngươi cứu mạng ta không có công phu vậy. Cũng không phải nhân duyên giúpviệc muốn sống của ta được toại nguyện.

Đế Thích vẫn chưa rõ, nên thưa:

- Nếu thâỳkhông nắm vào áo chư thiên thì thầy không thể lên, không thể lên thì không thểsống. Nhưng do thầy nắm vào áo chư thiên nên thầy mới sống. Vậy thì biết thầy vẫntham sống, chẳng phải không sợ chết.

Dã can giảithích:

- Ta nắm vào áochư thiên không phải vì tham sống mà vì ba sự nhân duyên lớn. Một, là không làmtrái bổn nguyện tốt lành của Thiên đế. Nếu làm trái thì mắc cái khổ lớn. Đời đơìsinh ra chỗ nào chí nguyện cũng không toại, cầu chi cũng không đặng. Hai, vì thâýý chư thiên muốn nghe pháp. Nếu không nói thì thành lẫn pháp. Tội lẫn pháp thìđời đời sinh ra ở chốn biên địa, ngu si vô trí, các căn hư hoại, đui, điếc,câm, ngọng. Nếu sinh được chỗ tốt lành thì tâm tánh cũng ám độn, sở học khôngthành tựu. Ba, là muốn tuyên truyền pháp hóa cùng khắp để khai ngộ chư thiên.

Đế Thích hiểu rồi,thưa tiếp:

- Pháp thí đượccông đức không lường. Nghĩa ấy thế nào xin thầy khai ngộ để lợi ích cho chưthiên?

Dã can trả lời:

- Truyền traoChánh pháp giúp chúng sinh biết được có chết đây thì có sinh kia, làm lành thìđược phước, làm ác phải chịu họa, tu đạo thì đắc đạo... Nhờ công đức đó, kiếpsau sinh ra được trí tuệ sáng suốt, thường biết việc đời trước. Nếu sinh lêncõi trời thì làm thầy của chư thiên. Nếu sinh trong thế gian thì làm vua KimLuân thường đem Thập thiện giáo hóa trong thiên hạ. Không thì làm vị Nhânvương, dùng Chánh pháp trị nước, thường biết việc đời trước. Nhờ biết việc đơìtrước nên tâm không buông lung. Song người ở địa vị cao sang, hưởng thú vui củangũ dục, phần nhiều gặp ma sự đến cám dỗ phá hoại. Nếu làm việc tội lỗi, phảichịu quả báo ở ba đường ác thì cũng nhờ lực trí tuệ, sẽ chóng được thoát khổ,hưởng phúc vui, dần dần tăng trưởng hạnh Bồ-tát, được Vô sinh nhẫn. Thế nêncông giáo hóa được phước vô lượng.

Thiên đế vui mừngthưa:

- Hay thay! Con và chư thiên ngày nay mới biếtcông đức nhân duyên giữa tài thí và pháp thí tướng có sai khác. Tài thí như ngọnđèn soi sáng trong nhà nhỏ. Pháp thí như ánh mặt trời soi khắp bốn châu. Ánhsáng đến đâu thì mờ ám tiêu hết. Vì sao? Vì cái thể của mặt trời, tính nó tự sángnên hay chiếu vật. Hòa thượng nay cũng lại như vậy. Vì sự tu tập mà được sángsuốt, lại đem trí tuệ sáng suốt đó trừ sự mờ tối cho chúng sinh.

Thiên đế nói lời ấy rồi, chư thiên đồng lòng bạchDã can truyền dạy cho pháp Thập thiện.

Trước khi traopháp Thập thiện, Dã can dạy người pháp sám hối giúp ba nghiệp thân, miệng và ýđược thanh tịnh. Ba nghiệp thuộc thân là sát, đạo, dâm. Bốn nghiệp thuộc miệnglà vọng ngữ, ỷ ngữ, lưỡng thiệt và ác khẩu. Ba nghiệp thuộc ý là tật đố[1], sânnhuế và tà kiến. Mười việc ấy đều phải sám hối không phạm. Không phạm, ấy làhành Thập thiện. Phạm thì hành Thập ác.

Sau khi sám hối xong, Thiên đế lại hỏi về quả báo củaThập thiện.

Dã can trả lời:

- Ta từngnghe Hòa thượng tiên sư nói quả báo của việc tu Thập thiện là được sinh lên cõitrời Lục dục. Cung điện toàn thất bảo, ngũ dục đầy đủ, sống lâu không lường,thân bằng quyến thuốc xinh đẹp, sạch sẽ, hoan lạc. Nếu chư thiên tu pháp Thậpthiện, sau khi phước báu cõi trời hết cũng trở lại sinh trong cõi trời, phướcbáu nhiều gấp bội. Không như quả báo của người đời tu Thập thiện. Vì người đơìtu Thập thiện nhưng ba giới của tâm khó giữ gìn. Như giới không sân, trước phảithực hành tâm từ, rồi sau mới thành tựu được giới không sân. Song người đời giữtâm từ chẳng được lâu. Hai là giới tật đố. Thấy người hơn mình thì tâm ấy mơíphát ra. Ba là tâm kiêu mạn. Tâm kiêu mạn cũng tùy thời mà phát. Như thấy ngươìngu si, thiếu hụt các căn v.v… rồi thấy mình hơn người mà phát khởi tâm kiêu mạn.Nói chung, người đời giữ giới tâm rất khó. Dù cố gắng thì cũng thoạt được thoạtkhông. Nên quả báo của người đời tu Thập thiện không bằng quả báo của chư thiêntu Thập thiện.

Thiên đế thưa:

- Chư Thiên giữtâm cũng không dễ, sao quả báo có thể hơn người đời thưa thầy?

Dã can trả lời:

- Chư thiên tuygiữ tâm không dễ nhưng không như người đời. Vì chư thiên có phước đức nên khôỉ́t, vui nhiều, tâm phiền não nhẹ. Người đời khổ nhiều vui ít, tâm phiền não nặng.

Thiên đế lại hỏi:

- Chẳng may phạmgiới thì làm sao?

Dã can trả lời:

- Nghe Hòa thượngtiên sư nói: Nếu chẳng may mất giới thì nên đến bậc hiền đức xin sám hối và thọlại.

Thiên đế nghecông đức Thập thiện lớn có thể giúp thoát được các đường khổ tâm tuy thấy vui,nhưng lại suy nghĩ: “Suy cho cùng, vẫn không tránh được cái nạn sinh tử vô thường.Trong cảnh sinh tử vô thường lại gây nghiệp tạo tội, chẳng tránh được việc lênxuống trong sáu đường”. Nghĩ rồi bèn thưa với Dã can:

- Vậy phải tupháp gì để thoát sinh tử và tránh được sự cám dỗ của ma vương?

Dã can trả lời:

- Hòa thượngtiên sư dạy rằng:Người phát tâm Bồ-đề, tu nghiệp Bồ-tát thì dù là ma BaTuần cũng không thể làm hại. Vì đời đời sinh ra được trí tuệ sáng suốt, có thểnhớ lại nghiệp xưa. Nhờ vậy nên không tạo ác nghiệp, tâm thanh tịnh, được Vôsinh pháp nhẫn. Đối với Đạo không còn lui sụt, xa lìa sinh tử ưu hoạn khổ não.Muốn tu nghiệp Bồ-tát thì phải cầu Phật đạo. Muốn cầu Phật đạo phải từ nơi tâmphát ra. Cầu Phật đạo thì trước phải học rộng, hiểu rõ các pháp nhân duyên, tíntâm mới bền vững. Tín tâm có bền thì mới có được tâm tinh tấn. Nhờ sức tinh tấnmà không tạo nghiệp ác. Tâm được thuần thiện thì không buông lung, trí tuệ đượcthành tựu. Trí tuệ được thành tựu thì thu nhiếp Ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Ngươìtu đạo Bồ-tát trước phải dùng phương tiện điều phục các căn. Phương tiện đó làLục độ và Tứ vô lượng tâm.

Bố thí giúp phátrừ tâm xan tham, không còn tiếc nuối.

Trì giới thìkhông làm các việc ác, các việc lành giữ được.

Nhẫn nhục nênác nghiệp đến không ôm lòng báo thù.

Tinh tấn thì đạo nghiệp siêng tu.

Thiền định giúpthu nhiếp thân tâm và không có tà niệm.

Trí tuệ giúpchiếu phá vô minh và phiền não.

Từ tâm có thìthấy người khổ nạn liền đứng ra cứu hộ, khiến họ được an ổn.

Bi tâm rộng thìvì chúng sinh khổ não mà thường siêng năng tu tập thiền định trí tuệ, chóngthành Phật đạo.

Thiền định và trí tuệ là phương tiện của Bồ-tát,giúp chúng sinh phá vỡ vô minh phiền não. Dù chưa thành Phật thì các nghiệplành có được đều hồi hướng cho chúng sinh, khiến chúng sinh được an vui. Chúngsinh có tội thì sẵn sàng thay thế mọi khổ nạn cho họ, để thành tựu Bồ-đề vô thượng.

Hỷ tâm là thâýngười vui, mình cũng tùy hỷ. Thấy người tạo được thiện nghiệp, có hạnh phúc, cócông đức v.v… thảy đều hoan hỷ.

Xả tâm thì tuytạo tất cả mọi công đức mà không cầu quả báo tốt đẹp cho đời sau.

Đó là Lục độ vàTứ vô lượng tâm. Gọi vô lượng vì chúng sinh vô lượng nên từ, bi, hỷ, xả cũng vôlượng. Cộng lại là mười pháp, tóm thâu hạnh Bồ-đề.

Thiên đế và chư thiên nghe xong, thân tâm rúng động,hoan hỷ đứng lên, đồng phát tâm Bồ-đề, đồng vâng làm hạnh Bồ-tát. Cũng xin dângđồ ăn thức uống cho Dã can. Nhưng nghiệp Dã can, vật thọ dụng không thanh tịnh,nên chư thiên không thực hiện được ýmuốn của mình. Rốt sau chỉ xin Dã cancho biết phải làm gì để trả ân sâu nặng này. Dã can dặn:

- Trở về cõi trời,cứ tùy nghi giáo hóa chư thiên, khiến họ tín thọ vâng làm các thiện nghiệp. Vâỵthì không những trả ân cho ta mà còn trả ân cho tất cả chư Phật. Cứ tùy thuậnmà giáo hóa khai ngộ cho người, công đức theo đó mà tăng trưởng. Ta hẹn trong bảyngày, sẽ bỏ thân tội lỗi này, sinh lên cõi trời Đâu Suất. Các ngươi cũng nênsinh về cõi ấy. Vì ở đó có nhiều Bồ-tát thuyết pháp cầu Phật đạo.

Chư thiên vângdạ, cùng nhau rải hoa trên thân Pháp sư Dã can, rồi từ biệt về trời.

Dã can vẫn ngồi yên một chỗ, nhất tâm chuyên niệmpháp Thập thiện, không đi kiếm ăn. Bảy ngày sau mạng chung, sinh lên cõi trơìĐâu Suất làm con một vị thiên vương, vẫn nhớ được nghiệp xưa, đem Thập thiệngiáo hóa chư thiên.

Xuất xứ câu chuyện

Câu chuyện trênđược lấy từ Kinh vị tằng hữu thuyết nhân duyên, dựa theo bản dịchcủa HT.Thích Hành Trụ.

Dã can là tiềnthân của Phật Thích Ca. Trời Đế Thích là tiền thân của Xá-lợi-phất. Giáo thọ cuaẢ-dật-đa ngày trước là tiền thân của Di Lặc. Tám vạn chư thiên là tám vạn Bồ-tátbất thối ở cõi Sa-bà này.

Chủng tử ẩn tàng trong thức thứ tám

Bài kinh cho thấy ngoài phần nghiệp hiện hành vẫncòn phần chủng tử (tập khí) ngủ ngầm trong tạng thức. Thức này còn gọi là thức thứ tám, cùng với thức thứ bảy âm thầmchuyển dịch bên trong, chi phối mọi hoạt động của sáu thức ngoài. Hệ A-hàm tuycó nhắc đến thức thứ tám, nhưng chỉ được khai triển rộng trong phần giáo lý Đạithừa. Đặc tính của chủng tử là chúng chỉ hiện khởi khi đủ duyên, còn bình thườngthì không thấy dấu vết. Một khi chúng phát tán mà không ý thức được, cũng khôngđủ trí lực Bát-nhã để dừng, thì có thể vào địa ngục như tên bắn. Nương đây cóthể giải thích vì sao thấy ai đó bình thường rất hiền lành, bỗng xảy ra việc giếtngười. Là do phần chủng tử bên trong đủ duyên hiện khởi. Đủ duyên trong trườnghợp này là phần nghiệp duyên đã tạo từ quá khứ. Việc này được trình bày qua nhiêùcâu chuyện Phật đã nói trong kinh. Vua Lưu Ly, vì một lời nguyền xưa mà khi đủduyên, liền trả báo dòng họ Thích. Vua Brahmadatta tuy biết đạo pháp, nhưng đủ duyênvẫn tiếp tục hiện khởi tập khí ăn thịt người của Dạ-xoa[2].Tôn giả A-nan do cái duyên 500 kiếp làm vợ chồng với Ma-đăng-già, đủ duyên gặplại xém mất giới thể[3]. Thiên đếtrong bài kinh này, cũng nhờ chủng tập tu hành đời trước mà khi chữ Phật xuấthiện, liền đến tai và bừng tỉnh…

Dã can thông mọi pháp thế gian, cũng biết ngồi ở địavị cửu trùng dễ gây tội tạo nghiệp, nhưng khi đủ duyên, mọi thứ vẫn không dừngđược, là do phần chủng tử bên trong này. Phần tâm thức hiện hành của Dã cankhông thấy có dâm ái, vì nó được thay thế bằng việc nghiên cứu, học hành và tu đạo.Quan trọng là lúc ấy không có điều kiện để dâm ái hiện hành. Nhưng khi làm vua,đầy đủ điều kiện để dâm ái xuất hiện thì chủng tử đó hiện khởi. Do lực Bát-nhãchưa mạnh nên rơi vào cảnh dâm ái không thể dừng, kéo theo bao hệ lụy khác. Tuyvậy, khi rơi vào các đường khổ, là điều kiện để tập khí dâm ái không thể phátkhởi được nữa, chủng Bát-nhã lại phát huy được tác dụng. Đó chính là thứ giúpDã can vượt thoát các đường khổ. Nhờ Bát-nhã, Dã can nhận ra lỗi lầm đã phạm vàsám hối. Cũng nhờ lực của Bát-nhã mà có thể giáo hóa chúng sinh khi đủ duyên.

Bài kinh cũngcho thấy trong quá trình tu đạo và hành đạo, phước báu có thể đưa đến quả báodanh lợi và mọi thứ đều được như ý, nhưng nếu lực trí tuệ chưa đủ giúp mình nhậnra những chủng tập còn ẩn sâu trong tàng thức của mình thì ác nghiệp vẫn có thểgây tạo, quả địa ngục vẫn dễ bước vào. Cho nên, cảnh bất như ý coi vậy mà khôngđáng ngại bằng mọi thứ đều được như ý, từ việc sung túc cho đến danh vọng và sựkính nể, là những thứ mình nghĩ do công phu tu hành mà có, thật ra chỉ mới làcái quả của phước báu, chưa hẳn định tuệ đã vững vàng. Thành ba nghiệp ở ý là tậtđố, sân nhuế và tà kiến rất dễ nảy sinh khi bạn chưa trang bị được cho mình cáinhìn duyên khởi, là tinh thần tùy duyên nói trong bài kệ của Tổ Trần Nhân Tông.Để cho tật đố, sân nhuế, tà kiến sai sử thì mọi việc đều mang tính quy ngã vàngã sở. Ngã và ngã sở xuất hiện thì phân biệt và thương ghét không thể tránh khỏi.Đó là việc người tu cần cẩn trọng.

Phu nhân BàngLong Uẩn nói: “Ý Tổ sư trên đầu ngọn cỏ”. Súc sinh vẫn còn có thể thuyết phápcho chư thiên. Thì biết, pháp giới này không có gì không học được. Chỉ là mìnhcó đủ tâm để thấy pháp giới này đều mang ý Tổ sư trong đó hay không. Phân biệtnhiều thì chỉ thấy ý mình là đúng, chẳng thể nhận được ý Tổ sư.

Chân Hiền Tâm

_____________

(1) Trong kinh Thậpthiện không nêu tật đố mà nêu tham dục.

(2) Tiểu bộ kinh tậpIX, Đại sư Sutasoma (Chuyện tiền thân của Đức Phật).

(3) Kinh Thủ lăng nghiêm.

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn//nguyetsan/phathocungdung/2019/07/25/7bf683/