Phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo tồn biển

Ngày 19/10, tại TP. Đà Nẵng, Bộ NN&PTNT phối hợp với Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) tổ chức hội nghị 'Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam nhằm phát triển bền vững kinh tế biển gắn với tăng trưởng xanh'.

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: VGP/Lưu Hương

Quang cảnh hội nghị. Ảnh: VGP/Lưu Hương

Hội nghị nhằm thảo luận, đề ra các giải pháp cho công tác bảo tồn biển trong thời gian tới theo Nghị quyết số 36-NQ/TƯ, hướng đến mục tiêu tăng trưởng xanh, phát triển nghề cá bền vững và có trách nhiệm.

Ông Nguyễn Quang Hùng, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản cho biết biển Việt Nam nằm trong vùng có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) khá cao, với hơn 11.000 loài sinh vật được phát hiện. Tính đa dạng về cảnh quan tự nhiên và nguồn lợi thủy sản là thế mạnh của Việt Nam trong phát triển ngành kinh tế biển nói chung và kinh tế thủy sản nói riêng và đặc biệt là thiết lập các khu bảo tồn biển (KBTB).

Năm 2018, tổng sản lượng thủy sản nước ta đạt khoảng 7,74 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu toàn ngành đạt 9 tỷ USD, góp phần quan trọng phát triển kinh tế đất nước, cải thiện sinh kế, ổn định đời sống người dân các tỉnh ven biển.

Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam cũng đang đối mặt với rất nhiều khó khăn từ sức ép kinh tế như phát triển du lịch biển, tình trạng khai thác thủy sản bất hợp pháp vẫn còn diễn ra, việc sử dụng chất nổ, xung điện, hóa chất cấm, chất độc, ngư cụ cấm để khai thác thủy sản, tình trạng ô nhiễm môi trường biển…

Công tác bảo tồn biển gặp khó khăn nên đã trực tiếp hoặc gián tiếp làm suy giảm nhanh nguồn lợi thủy sản tự nhiên và suy thoái các hệ sinh thái biển.

Sau gần 10 năm triển khai thực hiện Quyết định số 742/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 26/5/2010, mạng lưới 16 KBTB đang dần được thiết lập và hoàn thiện nhằm bảo vệ các hệ sinh thái biển và nguồn lợi thủy sản. Nhưng theo đánh giá của các chuyên gia, nhà khoa học các KBTB ở nước ta vẫn chưa hoạt động hiệu quả.

Ông Jacob Brunner, đại diện Tổ chức IUCN cho rằng tại Việt Nam, khu vực bảo vệ bảo tồn biển nghiêm ngặt là rất nhỏ, khoảng dưới 1 % diện tích, trong khi đó theo tiêu chuẩn quốc tế là 30%. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến việc bảo tồn các loài sinh vật. Trong quá trình nghiên cứu, IUCN đã phát hiện một trong những yếu tố làm cản trở sự quản lý hiệu quả tài nguyên sinh vật biển không phải đều bắt nguồn từ sự thiếu thốn nguồn vốn hay cơ sở vật chất mà là do sự không đồng ý của cộng đồng dân cư. Có những cộng đồng người dân dù hiểu biết về bảo tồn biển nhưng vẫn không đồng ý tham gia khu bảo vệ nghiêm ngặt này. Nguyên nhân là do một số ngư dân đã mang tàu thuyền đến đánh bắt bất hợp pháp và chính quyền cũng chưa ráo riết ngăn chặn việc đánh bắt trái phép này.

“Tuy công tác bảo tồn biển gặp nhiều thách thức nhưng IUCN sẽ đồng hành cùng Việt Nam để thành lập những KBTB một cách hiệu quả. Hiện nay chúng tôi cũng hỗ trợ khu bảo tồn Cù Lao Chàm tăng diện tích từ 0,5% - 10%”, đại diện IUCN khẳng định.

Để bảo tồn có hiệu quả các KBTB, theo PGS.TS Nguyễn Chu Hồi, nhìn từ các điển hình Cù Lam Chàm, Hòn Mun, Vườn quốc gia Núi Chúa cho thấy cần nỗ lực cải thiện sinh kế cho cộng đồng dân cư sống trong và lân cận khu bảo tồn biển để họ tham gia chủ động hơn vào việc quản lý khu bảo tồn biển, ủng hộ ban quản lý trong thực hiện kế hoạch quản lý, góp phần giảm sức ép khai thác tài nguyên, nguồn lợi thủy sản.

“Để bảo tồn biển, phát triển nghề cá bền vững thì phải duy trì được nguồn vốn tự nhiên biển, bảo tồn biển, bảo vệ môi trường biển, phát triển kinh tế biển hiệu quả, thực hiệp pháp luật tốt, truyền thông giáo dục nâng cao nhận thức”, PGS.TS Nguyễn Chu Hồi nhận định.

Còn PGS.TS Võ Sĩ Tuấn, nguyên Viện trưởng Viện Hải dương học Nha Trang thì cho rằng phải có sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và bảo tồn biển, kiểm soát tình trạng khai thác nguồn lợi quá mức, đồng thời phải tính đến sức tải của các hệ sinh thái du lịch.

“Việc cần làm là phải thiết lập các vùng không khai thác sử dụng thực sự trong các KBTB nhằm duy trì và bảo tồn các loài quý hiếm, duy trì tài nguyên cho khai thác thủy sản bền vững và hoạt động du lịch địa phương. Việc bảo vệ các bãi đẻ, ươm giống của các loài nguồn lợi cũng cần được coi trọng và thiết lập. Bên cạnh đó cần có cơ chế và biện pháp thực thi để doanh nghiệp và cộng đồng đồng quản lý và sử dụng tài nguyên”, PGS.TS Võ Sĩ Tuấn kiến nghị.

Nhằm đạt được những kết quả tốt trong thiết lập, quản lý hệ thống KBTB thời gian tới, Bộ NN&PTNT yêu cầu các đơn vị liên quan triển khai thực hiện Luật Thủy sản 2017 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật, đặc biệt là các nội dung liên quan đến quản lý khu bảo tồn biển; ưu tiên bố trí nguồn lực; bố trí lực lượng kiểm tra tại các KBTB để thực hiện tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm; chỉ đạo các đơn vị liên quan phối hợp chặt chẽ với Ban quản lý KBTB tăng cường tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm tại các KBTB; xử lý nghiêm các hành vi sử dụng xung điện, chất nổ, hóa chất cấm, chất độc, nghề, ngư cụ cấm sử dụng khai thác hải sản...

Lưu Hương

Nguồn Chính Phủ: http://baochinhphu.vn/bien-viet-nam/phat-trien-hai-hoa-giua-kinh-te-va-bao-ton-bien/377878.vgp