Quan hệ kinh tế Trung-Nhật đang được thử thách như thế nào bởi chính trị lạnh?
Trong 50 năm quan hệ ngoại giao với Nhật Bản, một nguyên lý dường như đã đứng trước thử thách của thời gian: Đại Liên đi thì Trung Quốc cũng vậy.
Quá khứ tươi đẹp
Thành phố cảng phía đông bắc ở tỉnh Liêu Ninh có một lịch sử lâu đời và phức tạp, do ảnh hưởng của Nhật. Đây là thành phố nằm dưới sự kiểm soát của Nhật trong bốn thập kỷ, cho đến năm 1945, và nhiều tàn tích kiến trúc vẫn còn sót lại. Chính cái tên của nó bắt nguồn từ cách đọc tiếng Trung của tên thuộc địa của Nhật là Dairen. Và cho đến ngày nay, nhiều công ty Nhật có mặt ở Đại Liên hơn bất kỳ thành phố nước ngoài nào khác ngoài Bangkok và Thượng Hải - một điểm bán hàng lớn mà chính quyền Đại Liên vẫn sử dụng để thu hút các công ty từ Nhật.
Vì vậy, khi Đại Liên xuất hiện trên các tiêu đề quốc tế và tạo ra một chút xôn xao trên mạng gần một năm trước vì tin tức có góc nhìn của Nhật, nó đã giúp minh chứng cho mối quan hệ của Trung Quốc với Nhật đã gắn bó và trôi chảy như thế nào trong những năm qua.
Một nhà máy hơn 30 năm tuổi của tập đoàn điện tử khổng lồ Nhật Toshiba - từng được coi là “hòn ngọc của Khu vực Phát triển Đại Liên” và là đầu tàu kinh tế của thành phố - đã ngừng hoạt động vào tháng 9. Ngày nay, lối vào chính của cơ sở đã đóng cửa được lót bằng hàng rào thép gai gỉ sét, cảnh quan xung quanh bị tàn phá với cỏ dại cao hàng mét và cỏ mọc um tùm.
Ngay trước lối ra của Toshiba, một con phố mua sắm theo chủ đề Nhật Bản - tương tự nằm ở Khu mới Jinpu của Đại Liên - đã đột ngột đóng cửa chỉ hai tuần sau khi mở cửa. Là một phần của khu phức hợp trị giá 6 tỷ nhân dân tệ (890 triệu USD) rộng 6,5 triệu mét vuông, dự án có tên Tang Little Kyoto dựa trên cảnh quan thị trấn của Kyoto, Nhật.
Mặc dù rất phổ biến đối với khách du lịch trong nước, những người không thể đi du lịch do các hạn chế của Covid-19, con phố đã bị đóng cửa sau một cơn bão trên mạng xã hội, với làn sóng giận dữ kêu gọi người dân Trung Quốc tẩy chay.
Cuối cùng nó đã mở cửa trở lại vài tháng sau đó nhưng giảm bớt các yếu tố Nhật trong khi cũng có các cửa hàng của Triều Tiên và Nga. Đèn lồng đỏ của Trung Quốc cũng được treo trên các mái nhà phía trên mỗi cửa hàng, cho thấy rõ rằng đây là một chuyến du ngoạn văn hóa đa dạng hơn - và là một chuyến du ngoạn mang đặc trưng của Trung Quốc.
Chuyến thăm gần đây của tờ SCMP vào thời điểm cao điểm của mùa du lịch hè ở Đại Liên đã xác nhận rằng những khách hàng đông đúc trên phố vào năm ngoái đã không còn nữa.
Cuộc đấu tranh của thành phố với nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất và nhà định cư cũ đã làm phóng đại những gì có thể thấy trên toàn Trung Quốc trong dịp kỷ niệm 50 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nền kinh tế lớn.
Năm nay cũng đánh dấu sự kết thúc của việc Nhật cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Trung Quốc trong 42 năm qua, sau khi họ đã được rút dần trong nhiều năm. ODA là viện trợ giữa các chính phủ với chính phủ để thúc đẩy phúc lợi và tăng trưởng kinh tế của các nước đang phát triển.
Năm mang tính biểu tượng này dường như báo trước một bước ngoặt trong quan hệ kinh tế giữa hai bên.
Các chuyên gia cho rằng mối quan hệ kinh tế gắn bó sâu sắc giữa hai nước - được xây dựng trong vài thập kỷ qua - là nền tảng cho sự ổn định trong quan hệ Trung-Nhật, bất chấp những tranh chấp lịch sử sâu xa và sự ngờ vực về chính trị. Đó là một tình huống được gọi là "chính trị lạnh, kinh tế nóng".
Nhưng những căng thẳng về địa chính trị, sự tách rời kinh tế và thủ công pháp - với kinh tế được sử dụng trong các mục tiêu chính sách - đã đe dọa sự cân bằng tốt đẹp.
"Chính trị lạnh, kinh tế nóng"
Shin Kawashima, giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Tokyo, cho biết: “Có thể ngày càng khó tách biệt hoàn toàn kinh tế và chính trị trong tương lai”.
Ở cấp độ công ty, việc Toshiba rút lui khỏi Đại Liên dường như nhấn mạnh xu hướng tổng thể của các công ty Nhật rời khỏi Trung Quốc, bắt đầu từ nhiều năm trước do chi phí lao động tăng trong nước và ngày càng trầm trọng hơn bởi đại dịch.
Theo một cuộc khảo sát gần đây từ Teikoku Databank, một tổ chức nghiên cứu tín dụng hàng đầu của Nhật, có 12.706 công ty Nhật tại Trung Quốc tính đến 6- 2022, giảm 940 công ty kể từ cuộc khảo sát năm 2020. Vào thời điểm cao điểm nhất vào năm 2012, có 14.394 công ty Nhật có hoạt động tại Trung Quốc.
Trong khi đó, hơn 200 công ty đã rút khỏi Thượng Hải do việc phong tỏa nghiêm ngặt vào mùa xuân này, cuộc khảo sát cho thấy.
"Nhật đang bước vào một kỷ nguyên mới của việc 'không phụ thuộc' vào Trung Quốc".
Theo số liệu từ Bộ Tài chính Nhật, đầu tư trực tiếp của nước này vào Trung Quốc vào năm 2021 là khoảng 1,08 nghìn tỷ yên (8,05 tỷ USD), giảm 6,5% so với cùng kỳ năm ngoái.
Nhưng đối với các công ty Nhật, mặc dù sự tỏa sáng có thể đang phai nhạt đối với vai trò “công xưởng của thế giới” của Trung Quốc, họ vẫn là một thị trường quan trọng, ông Kawashima nói.
“Đối với các công ty Nhật, việc đặt cơ sở sản xuất toàn cầu ở Trung Quốc ngày càng trở nên rủi ro, vì vậy họ có thể chuyển chúng sang Đông Nam Á và các nước khác. Nhưng đối với các sản phẩm dành cho thị trường Trung Quốc, sẽ có lợi hơn nếu sản xuất ở Trung Quốc”, ông Kawashima nói.
Ông nói thêm: “Nền kinh tế Nhật sẽ tiếp tục dựa vào thị trường Trung Quốc”.
Một cuộc khảo sát của Tổ chức Ngoại thương Nhật, được công bố vào tháng 2, cho thấy chỉ 3,8% các công ty Nhật ở Trung Quốc có kế hoạch thu nhỏ quy mô hoạt động kinh doanh của họ hoặc chuyển sang nước thứ ba. Trong khi đó, 40,9% đang tìm cách mở rộng, tăng 4,3 điểm phần trăm so với năm 2020, nhưng vẫn thấp hơn mức trước đại dịch.
Cuộc khảo sát cũng cho thấy 72,2% các công ty Nhật ở Trung Quốc có lãi trong năm ngoái - tỷ lệ cao nhất kể từ năm 2007.
Ryusuke Takashima, Phó chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Nhật tại Trung Quốc, cho biết: “Điều đó cho thấy mặc dù các doanh nghiệp Nhật tại Trung Quốc đã đạt được lợi nhuận hoạt động tốt, nhưng họ vẫn thận trọng trong việc mở rộng kinh doanh. tháng”.
Trong khi đó, đối mặt với áp lực tài khóa gia tăng trong bối cảnh kinh tế suy thoái, các chính phủ khu vực ở Trung Quốc đang nỗ lực duy trì và thu hút nhiều hơn các khoản đầu tư của Nhật, các chuyên gia cho biết.
Sáu khu trình diễn cho hợp tác địa phương Trung-Nhật đã được Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia phê duyệt vào 4-2020, bao gồm một khu ở Đại Liên, nơi chính quyền địa phương đã giao 52,92 km vuông đất cho đầu tư của Nhật vào sản xuất thiết bị cuối và các ngành công nghiệp vật liệu mới.
Năm 2021, Trung Quốc vẫn là đối tác thương mại lớn nhất của Nhật và Nhật là đối tác thương mại lớn thứ hai của Trung Quốc, với tổng giá trị thương mại đạt 371,4 tỷ USD - một mức cao trong lịch sử, theo China Customs.
“Về cơ bản mà nói, Nhật vẫn phụ thuộc vào Trung Quốc về kinh tế và thương mại”, Lian Degui, giáo sư và giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nhật tại Đại học Nghiên cứu Quốc tế Thượng Hải cho biết.
Ông Lian mô tả thương mại giữa hai nước là bổ sung cho nhau và cho biết cả hai bên đều nhận thức rõ tầm quan trọng của hợp tác kinh tế trong quan hệ Trung-Nhật.
Ông Lian nói: “Nhật đang rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan trong bối cảnh căng thẳng Trung-Mỹ. Bây giờ Mỹ đang yêu cầu Nhật tách dần khỏi Trung Quốc và Nhật phải hợp tác ở một mức độ nhất định, xu hướng này vẫn đáng lo ngại”.
“Nhưng Nhật vẫn có thể chống lại ảnh hưởng của Mỹ về mặt kinh tế. Việc tách Nhật khỏi Trung Quốc hoàn toàn không có lợi cho bản thân Nhật, vì vậy cho dù đó là việc Nhật thoái vốn hay gây trở ngại cho hợp tác kinh tế Trung Quốc từ góc độ an ninh, đều có giới hạn”.
Năm 2021, các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Nhật sang Trung Quốc bao gồm vi mạch tích hợp, thiết bị liên quan đến sản xuất chất bán dẫn và dụng cụ chính xác, trong khi các mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Trung Quốc sang Nhật cũng là thiết bị điện và cơ khí như điện thoại và máy tính.
Ông Kawashima cho biết, để duy trì quan hệ thương mại song phương ổn định, cả hai nước phải tiếp cận với các sản phẩm hoặc công nghệ tương đối có lợi thế của bên kia.
Thách thức từ các dự luật
Nhưng một dự luật an ninh kinh tế được Quốc hội Nhật thông qua vào tháng 5 về cơ bản có thể định hình lại mối quan hệ hợp tác kinh tế trong tương lai giữa hai nước, theo các chuyên gia.
Dự luật Thúc đẩy An ninh Kinh tế nhằm bảo vệ công nghệ và củng cố các chuỗi cung ứng quan trọng, đồng thời áp đặt sự giám sát chặt chẽ hơn đối với các công ty Nhật trong các lĩnh vực nhạy cảm hoặc trong cơ sở hạ tầng quan trọng.
Mặc dù phạm vi đầy đủ của luật vẫn chưa được tiết lộ, nhưng nó có thể dẫn đến việc hạn chế quyền truy cập của các thực thể Trung Quốc trong các lĩnh vực như chất bán dẫn và dược phẩm.
Trong khi đó, Mỹ và Nhật đã triệu tập Ủy ban Tham vấn Chính sách Kinh tế lần đầu tiên, còn được gọi là cuộc họp “Kinh tế 2 + 2”, vào 29-7 tại Washington, DC, nơi các quan chức hai bên bày tỏ “quan ngại nghiêm trọng” về “việc sử dụng có hại của ảnh hưởng kinh tế - bao gồm ép buộc kinh tế, cũng như các hoạt động cho vay không công bằng và không rõ ràng - theo những cách thức đe dọa lợi ích hợp pháp của các quốc gia có chủ quyền, cũng như của các cá nhân và ngành công nghiệp”, theo Bộ Ngoại giao Mỹ.
Ngoài ảnh hưởng của Mỹ, tranh chấp về nhận thức lịch sử và lãnh thổ cũng sẽ cản trở việc hiện thực hóa tiềm năng hợp tác kinh tế giữa hai nước, ông Liu Jiangyong, giáo sư quan hệ quốc tế tại Đại học Thanh Hoa cho biết.
Nhưng tác động của các thỏa thuận thương mại khu vực có thể giúp mở đường cho thương mại.
Với việc Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực (RCEP) có hiệu lực vào tháng 1, người ta kỳ vọng rằng thương mại Trung-Nhật sẽ được hưởng lợi phần lớn nếu các cam kết từ hai bên được thực hiện tốt.
Theo thỏa thuận RCEP, 86% sản phẩm Nhật xuất khẩu sang Trung Quốc cuối cùng sẽ được hưởng mức thuế bằng 0, trong khi 88% hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc sang Nhật sẽ được hưởng mức thuế tương tự.
Nhưng so với Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), hiện do Nhật dẫn dắt sau khi Mỹ rút lui, RCEP có mức độ tự do hóa thấp hơn, và một số người cho rằng điều này có tác động hạn chế đến việc thúc đẩy Trung Quốc - Quan hệ kinh tế thương mại Nhật.
Năm ngoái, Trung Quốc đã nộp đơn xin gia nhập CPTPP, nhưng nước này vẫn chưa đáp ứng các yêu cầu liên quan, chẳng hạn như các yêu cầu liên quan đến sự hiện diện mạnh mẽ của các doanh nghiệp nhà nước và luồng dữ liệu tự do xuyên biên giới.