Quan niệm về con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, tư tưởng về con người là một nội dung lớn, cơ bản, phong phú và toàn diện. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hình thành rất sớm, liên tục phát triển với tất cả sự trong sáng, cao cả và nhân văn. Tư tưởng đó xuất phát từ cội nguồn quốc gia và quốc tế, từ môi trường văn hóa gia đình, quê hương, dân tộc; toát ra từ toàn bộ thực tiễn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực tiễn phong trào cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người là một vấn đề rất lớn, bao gồm nhiều nội dung phong phú, cả một quá trình phát triển từ thấp đến cao và ngày càng được hoàn thiện thêm từ phạm vi dân tộc vươn tới nhân loại, hướng tới việc giải phóng con người và mưu cầu hạnh phúc cho mọi người.

Hồ Chí Minh có cách nhìn nhận, xem xét con người trong tính đa dạng của nó, thể hiện sự đa dạng trong quan hệ xã hội (dân tộc, giai cấp, tầng lớp, đồng chí, đồng bào); đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người được nhìn nhận như một chỉnh thể thống nhất cả về tâm lực, thể lực, luôn vươn tới Chân – Thiện – Mỹ. Bằng phương pháp luận khoa học, Hồ Chí Minh nhìn nhận con người một cách cụ thể, khoa học, Người phân loại rõ về giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp trong khối thống nhất cộng đồng dân tộc (Sĩ, Nông, Công, Thương); trong quan hệ quốc tế (bầu bạn năm châu, các dân tộc bị áp bức, bốn phương vô sản), Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng nhìn nhận con nguời qua bản chất con người mang tính xã hội (Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất; con người là sản phẩm của xã hội). Từ đó, có cách nhìn con người thông qua các quan hệ anh em, họ hàng, bầu bạn; đồng bào, loài người.

Thực ra, có nhiều quan niệm và cách nhìn nhận khác nhau về con người. Nho giáo định nghĩa chữ đồng bào như sau: “Nghĩa hẹp là con chung một lòng cha, một lòng mẹ đẻ ra. Theo nghĩa rộng, trời là cha lớn, mẹ là đất lớn, tất thảy mọi người là con chung một bào thai nên có nói rằng “tứ hải đồng bào” (1).

Hồ Chí Minh ngay từ những năm 20, nhờ mục kích cuộc sống của nhân dân các dân tộc thuộc địa dưới ách kìm kẹp của chủ nghĩa đế quốc, nên có sự phân biệt rạch ròi giữa một bên là đế quốc, thực dân tàn bạo, độc ác và bên kia là những người lao động bị bóc lột, áp bức nặng nề. Người đã kết luận sâu sắc: “Dù màu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột” (2). Cuối những năm 40, liền mạch suy nghĩ về đạo đức cách mạng, Hồ Chí Minh viết: “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia thành hai hạng người Thiện và người Ác” (3). Rồi Người lại ghép “bọn Việt gian bán nước,… bọn phát xít thực dân, là những ác quỷ ma tà” vào một nhóm; còn “tất cả những người khác” (4) vào một nhóm khác.

Sở dĩ chia con người ra từng hạng khác nhau như vậy, theo Hồ Chí Minh là để “thực hành chữ BÁC - ÁI, thực hành “đại đoàn kết” và “giúp người tiến tới”. Người cho rằng những người bị bóc lột, những người đi theo điều thiện thì dù màu da, tiếng nói có khác nhau, có thể coi nhau như anh em một nhà, có thể “đại đoàn kết”, “đại hòa hợp” trong một “thế giới đại đồng”.

Theo Hồ Chí Minh, người ta mới sinh ra đều vốn tốt cả, nhưng về sau do ảnh hưởng của bố mẹ, bạn bè, xã hội mà dần dần mỗi người một khác. Đồng thời, “ngay trong mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng” (5). Vì vậy: “Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi... Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nãy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời” (6).

Để làm rõ mối quan hệ “mình đối với người”, năm 1949, Hồ Chí Minh nêu ra định nghĩa: “Chữ người nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn. Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng nữa là cả loài người” (7). Tuy nhiên, chữ “người” mà Hồ Chí Minh quan tâm trước hết và hơn cả là bao gồm tuyệt đại bộ phận dân tộc và các thành phần chủ yếu là Nhân dân lao động. Nó gần với hai chữ “đồng bào” khi Hồ Chí Minh nói “giải phóng đồng bào”. Và khi Hồ Chí Minh viết trong Di Chúc: “Đầu tiên là công việc đối với con người” thì Người đã gửi gắm tất cả tâm tư, tình cảm và bộc lộ tư tưởng của mình đối với Nhân dân, với đồng chí, đồng bào.

Ở Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước bao giờ cũng gắn bó chặt chẽ với quan điểm Nhân dân. “Dân” trong tư tưởng Hồ Chí Minh là toàn dân, là những người bị áp bức bóc lột trong nước. Dân là chủ của mọi quá trình cách mạng, là lực lượng vô tận của cách mạng. Từ thực tế khó khăn của thời kỳ chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ, nhân dân Quảng Bình đã đưa ra một tổng kết quý giá: “Dễ mười lần không dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Hồ Chí Minh hết sức tâm đắc với sự tổng kết đó và đã không ít lần sử dụng lại trong các bài viết, bài nói của mình. Ngày nay, bài học đó vẫn giữ nguyên giá trị - bài học khẳng định sức mạnh phi thường, vô địch của quần chúng Nhân dân.

Trong những năm 20, trong một tác phẩm dùng để huấn luyện thanh niên, trí thức yêu nước, cuốn “Đường Kách mệnh”, Hồ Chí Minh có nói: “Muốn Kách mệnh thành công thì phải (lấy) dân chúng (công nông) làm gốc”. Trong thời kỳ Kháng chiến Kiến quốc, Người đã nâng quan điểm “dân” của mình lên một nấc thang mới cao hơn: “Nước lấy dân làm gốc” (8). Và:

“Gốc có vững cây mới bền

Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” (9)

Hồ Chí Minh xét tới mối quan hệ: Thiên thời - Địa lợi - Nhân hòa, trong đó “nhân hòa”, tức là con người, là trung tâm, là chủ thể. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng Nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của Nhân dân” (10). Vận dụng và phát triển quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của Nhân dân trong lịch sử, Hồ Chí Minh đã khẳng định địa vị và quyền làm chủ của Nhân dân, nếu không có Nhân dân thì không đủ lực lượng bởi “dân như nước”.

Có thể nói, dù hiểu con người - Nhân dân trong những mối quan hệ khác nhau thì cách nhìn nhận, đánh giá con người của Hồ Chí Minh vẫn nhất quán trước sau như một: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng Nhân dân và: “Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả” (11). Trong Di chúc Người viết: “Để dành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này (tức cuộc chiến đấu chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi), cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân” (12).

Với ý thức phục vụ, yêu quý, kính trọng Nhân dân, Hồ Chí Minh luôn dạy rằng người cán bộ, đảng viên phải tuyệt đối trung thành với lợi ích của giai cấp, của Nhân dân, ngoài ra không có lợi ích nào khác. Đảng, Nhà nước, cán bộ… không phải là “cứu tinh” của dân mà có nhận trách nhiệm phụng sự Nhân dân, đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết. Người nói: “Nếu nước được độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa lý gì” (13). Người lại nói: “Trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân dân” (14).

Trung thành với Nhân dân, vì lợi ích của Nhân dân trước hết, đặt lợi ích của Nhân dân lên trên hết là lẽ sống cao quý nhất của người cách mạng.

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng những tình cảm cách mạng vừa sâu sắc, bao la, vừa gần gũi, trong sáng đối với Nhân dân. Tình cảm đó không phải lòng thương người siêu giai cấp, trừu tượng, chung chung, mà hết sức cụ thể. Đó là tình thương yêu đối với giai cấp vô sản, những người lao động bị bóc lột, áp bức. Từ đó, Hồ Chí Minh đi tới khẳng định con người, khẳng định sự cao quý của con người. Thương yêu nhân dân, Hồ Chí Minh chú ý đến mọi đối tượng: người già, trẻ em, phụ nữ. Người có một tình cảm với đồng bào, cán bộ , chiến sĩ miền Nam: “Ở miền Nam Việt Nam… mỗi người, mỗi gia đình đều có một nỗi đau khổ riêng và gộp cả những nỗi đau khổ riêng của mỗi người, mỗi gia đình lại thì thành nỗi đau của tôi” (15).

Thương yêu, kính trọng và tin tưởng Nhân dân, Hồ Chí Minh đã biến những tình cảm đó thành hành động cách mạng, nâng con người lên, truyền cho họ sức mạnh, tạo điều kiện cho họ phát huy trí tuệ, năng lực sáng tạo, hướng con người tới Chân - Thiện - Mỹ.

Trong hành trình đi tới giải phóng con người và đem lại hạnh phúc cho nhân dân, Hồ Chí Minh không quên nhắc nhở một đảng cầm quyền, bộ máy nhà nước, mỗi cán bộ, đảng viên phải chịu trách nhiệm trước dân. Điều đó đồng nghĩa với việc thực hiện những quyền cơ bản, những lợi ích cụ thể và sự phát triển của con người. Người viết: Tục ngữ có câu: “Dân dĩ thực như thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời. Lại có câu: “Có thực mới vực được đạo” nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc gì cả.

Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống Nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” (16).

Hồ Chí Minh muốn đào tạo một đội ngũ cán bộ vì dân “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; phải có trách nhiệm đối với nhân dân chứ không chỉ đối với Đảng và Chính phủ. Theo người, mỗi cán bộ, đảng viên vừa phải phụ trách trước Đảng và Chính phủ, vừa phải phụ trách trước nhân dân. Nếu nói chỉ phụ trách trước Đảng và Chính phủ thì mới đúng một nửa.

Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa là động lực, vừa là mục tiêu của cách mạng. Nhưng không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền tảng truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi họ hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Và, đương nhiên đối với người dân Việt Nam cần có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng: Con người phải được đặt vào vị trí trọng tâm của sự phát triển, vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp…

Hồ Chí Minh từng nói: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa”. Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người mới xã hội chủ nghĩa, làm gương lôi cuốn xã hội. Đây là một quá trình lâu dài, phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao. Đây cũng là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình và của chính bản thân mỗi người.

Con người mới xã hội chủ nghĩa gồm hai mặt gắn bó với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và Phương Đông). Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức xã hội chủ nghĩa; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ (bản thân, gia đình, xã hội, thiên nhiên…); có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng. Có thể nói, chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Hồ Chí Minh thường nói đến câu nói của người Trung Quốc “Vì lợi ích mười năm phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm phải trồng người” để chỉ đạo chiến lược “trồng người” của Việt Nam theo cách của Việt Nam. Để thực hiện chiến lược “trồng người” cần có nhiều biện pháp đồng bộ, nhưng giáo dục và đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi lẽ, giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thanh niên. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề quan tâm hàng đầu của bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ.

Đối với thanh niên, Người căn dặn thêm phải có sáu cái yêu: yêu Tổ quốc; yêu Nhân dân; yêu xã hội chủ nghĩa; yêu lao động; yêu khoa học và yêu kỷ luật. Đối với thiếu niên, nhi đồng, Người căn dặn thiết thực bằng năm điều: Yêu Tổ quốc, yêu đồng bào/ Học tập tốt , lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỷ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.

Tóm lại: Quan niệm về con người; coi con người là một thực thể thống nhất của “cái cá nhân” và “cái xã hội”, con người tồn tại trong mối quan hệ biện chứng giữa cá nhân và cộng đồng, dân tộc, giai cấp, nhân loại; yêu thương con người, tin tưởng tuyệt đối ở con người, coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp giải phóng xã hội và giải phóng chính bản thân con người, đó chính là những luận điểm cơ bản trong tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Xuất phát từ những luận điểm đúng đắn đó, trong quá trình lãnh đạo Nhân dân cả nước tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh luôn tin ở dân, hết sức thương yêu, quý trọng dân , biết tổ chức và phát huy sức mạnh của Nhân dân. Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh thông qua thực tiễn cách mạng của Người đã trở thành một sức mạnh vật chất to lớn và là nhân tố quyết định thắng lợi của chính sự nghiệp cách mạng ấy.

Tư tưởng về con người của Đảng Cộng sản Việt Nam nhất quán với tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh. Sự nhất quán ấy thể hiện qua đường lối lãnh đạo cách mạng như Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) và Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Khóa XI (liên quan đến xây dựng và phát triển văn hóa con người Việt Nam - nói tắt-) và các chủ trương chính sách của Đảng trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Tư tưởng về con người của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị tiếp tục được Đảng ta vận dụng trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.

KHUẤT MINH PHƯƠNG

Tài liệu tham khảo

1. Đào Duy Anh, Hán - Việt từ điển, NXB KHKT, H. 1992 trang 302.

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1982, t 1, trang 212.

3, 4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1985, t 5, trang 246.

5, 6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1989, t 10, trang 666 - 667.

7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1985, t 5, trang 247.

8, 9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1985, t 5, trang 77, 79.

10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB CTQG, H. 2002, t 8, trang 276.

11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1984, t 4, trang 154.

12. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1984, t 4, trang 35.

14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1987, t 7, trang 544.

15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1989, t 10, trang 795.

16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, NXB Sự thật, H. 1987, t 7, trang 260.

Nguồn Lâm Đồng: http://baolamdong.vn/chinhtri/202208/quan-niem-ve-con-nguoi-trong-tu-tuong-ho-chi-minh-3129973/