Nếu nói Nam Phi là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân, chắc chắn nhiều người sẽ rất khó tin. Quốc gia này từng rơi vào cảnh hỗn loạn do chính sách phân biệt chủng tộc cho tới tận năm 1994. Nhiều biện pháp trừng phạt khác nhau cũng được quốc tế áp đặt với nước này.
Nam Phi ban đầu tập trung vào việc phát triển năng lượng hạt nhân vì mục đích hòa bình. Trên thực tế, chương trình hạt nhân đã bắt đầu từ năm 1948, khi Tập đoàn Năng lượng Nguyên tử Nam Phi được thành lập. Nam Phi đã hợp tác chặt chẽ với Mỹ trong khuôn khổ chương trình nguyên tử vì hòa bình.
Trong thời gian này Nam Phi tham gia nhiều cuộc xung đột quân sự và chiến tranh biên giới như cuộc chiến tranh giành độc lập Namibia, kéo dài 23 năm. Trong cuộc xung đột, quân đội Nam Phi không chỉ phải đối mặt với quân nổi dậy, mà còn cả các lực lượng được huấn luyện bài bản do Liên Xô hỗ trợ, bao gồm cả các đơn vị của quân đội Cuba.
Các lực lượng vũ trang Nam Phi đã quyết định tìm đến vũ khí hạt nhân, để giải quyết các cuộc xung đột. Để làm được điều này, quốc gia này có tất cả bốn thành phần cần thiết: nguyên liệu thô, khả năng làm giàu các vật liệu chiết xuất thành cấp độ vũ khí, nhân viên được đào tạo và huấn luyện và khả năng sản xuất hoặc mua các thành phần cho vũ khí nguyên tử.
Nam Phi là quốc gia có trữ lượng uranium lớn nhất hành tinh, nằm trong số mười quốc gia hàng đầu về chỉ số này. Theo nhiều ước tính khác nhau, trữ lượng uranium tự nhiên ở Nam Phi ước tính khoảng 6-8% tổng trữ lượng của thế giới. Nam Phi từng là nơi cung cấp nguyên liệu thô cho các chương trình hạt nhân của Washington và London.
Để đổi lấy việc cung cấp uranium cho Mỹ, các chuyên gia và nhà khoa học từ Nam Phi đã có cơ hội làm việc tại các cơ sở hạt nhân của Mỹ. Tổng cộng, hơn 90 chuyên gia kỹ thuật và nhà khoa học từ một quốc gia châu Phi đã làm việc tại Mỹ. Điều này đã giúp Nam Phi vào những năm 1970 bắt đầu chế tạo vũ khí hạt nhân của riêng mình.
Các loại vũ khí hạt nhân được phát triển ở Nam Phi còn khá thô sơ. Các kỹ sư của Nam Phi đã thực hiện phương pháp kích nổ đơn giản, chỉ áp dụng cho đạn uranium. Một ví dụ điển hình là quả bom được thả xuống Hiroshima vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Sức mạnh của những quả bom như vậy được giới hạn ở hàng chục kilotons TNT.
Có rất nhiều điện tích hạt nhân đã được lắp ráp ở Nam Phi, bao gồm cả điện tích thử nghiệm đầu tiên. Mẫu đầu tiên có tên mã là "Hobo", được lắp ráp vào năm 1982, sau đó thiết bị được đổi tên thành "Cabot". Sức mạnh của điện tích thử nghiệm đầu tiên là 6 kiloton, đối với năm mẫu nối tiếp được tạo ra sau đó đã lên đến 20 kiloton.
Trên thực tế, khi nghiên cứu các phương tiện vận chuyển vũ khí hạt nhân, Nam Phi chỉ dựa vào phương thức hàng không đơn. Đồng thời, họ cố gắng tạo ra các thiết bị hạt nhân của mình, với mục tiêu sử dụng nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả tên lửa đạn đạo tầm trung.
Máy bay tấn công hai chỗ ngồi Blackburn Buccaneer của Anh, được sử dụng làm vũ khí mang đầu đạn hạt nhân. Không quân Nam Phi bắt đầu nhận các máy bay này vào năm 1965, bất chấp việc một năm trước đó Anh đã áp đặt lệnh cấm vận vũ khí đối với nước này.
Bộ Quốc phòng Nam Phi đã đặt mua 16 máy bay Buccaneer S50. Những chiếc máy bay cường kích đa năng này đã được điều chỉnh, để vận hành trong điều kiện khí hậu nóng, ngoài ra còn nhận được một cặp động cơ phụ Bristol Siddeley BS-605.
Thương vụ được thực hiện với điều kiện, máy bay chỉ được sử dụng cho các mục đích phòng thủ, bao gồm cả việc bảo vệ thông tin liên lạc trên biển. Trên thực tế, những chiếc máy bay này đã tham gia vào cuộc chiến ở Angola, đều có thể mang vũ khí hạt nhân. Vì lý do này, Anh sau đó đã hủy bỏ cung cấp thêm 14 máy bay chiến đấu tương tự cho Nam Phi.
Với loại máy bay này, những quả bom dẫn đường có thể được sử dụng. Phiên bản đầu tiên là Raptor I, loại bom lượn có tầm bắn lên tới 59,55 km. Trên cơ sở Raptor I, một loại đạn có đầu đạn hạt nhân, được gọi là HAMERKOP, đã được tạo ra.
Sau đó, trên cơ sở loại đạn này, vào những năm 1990, bom lượn có điều khiển Denel Raptor II đã được tạo ra, được xuất khẩu sang Algeria và Pakistan. Người ta cũng tin rằng các chuyên gia Nam Phi, đã giúp Pakistan tạo ra tên lửa hành trình Ra’ad của riêng mình, được trang bị đầu đạn hạt nhân.
Nam Phi cũng cố gắng tạo ra tên lửa đạn đạo của riêng mình, để chuyển giao vũ khí hạt nhân. Các kỹ sư Nam Phi đã làm việc chặt chẽ với Israel. Vì vậy, nó đã được lên kế hoạch sử dụng các phương tiện phóng RSA-3 và RSA-4. Tên lửa Shavit của Israel được chế tạo, như một phần của chương trình không gian Nam Phi.
Quyết định từ bỏ vũ khí hạt nhân được Nam Phi đưa ra vào năm 1989, ngay cả trước khi chính sách phân biệt chủng tộc bị bãi bỏ và Nelson Mandela lên nắm quyền. Tất cả sáu quả bom và đạn dược thu thập được ở giai đoạn lắp ráp đã được xử lý.
Năm 1991, nước này ký Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân. Vào ngày 19/8/1994, phái bộ của IAEA đã hoàn thành công việc của mình tại nước này, xác nhận sự thật về việc tiêu hủy tất cả vũ khí hạt nhân, đồng thời bày tỏ sự hài lòng với việc chuyển đổi chương trình hạt nhân của Nam Phi sang một kênh hòa bình.
Ngoài ra, việc quân đội Nam Phi và Cuba rút khỏi Angola và trao độc lập cho Namibia, dẫn đến nhu cầu sở hữu vũ khí hạt nhân của quân đội đã hoàn toàn biến mất. Việc tự nguyện từ bỏ vũ khí hạt nhân là quá trình khôi phục ổn định trong khu vực, cũng như trả lại niềm tin cho đất nước và cải thiện quan hệ của Nam Phi trên trường quốc tế. Nguồn ảnh: QQ.
Quốc gia duy nhất tự nguyện từ bỏ vũ khí hạt nhân. Nguồn: TRTworld.
Thái Hòa