QUỐC HỘI NGHE BÁO CÁO GIẢI TRÌNH, TIẾP THU VÀ CHỈNH LÝ DỰ THẢO NGHỊ QUYẾT PHÊ CHUẨN GIA NHẬP CÔNG ƯỚC 105 VỀ XÓA BỎ LAO ĐỘNG CƯỠNG BỨC

Tiếp tục kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, sáng ngày 08/6, dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết phê chuẩn gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động Quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức.

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu nêu rõ: Theo chương trình kỳ họp, ngày 20/5/2020, Quốc hội thảo luận trực tuyến việc gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xóa bỏ lao động cưỡng bức (gọi tắt là Công ước số 105).

Các ý kiến đại biểu Quốc hội (ĐBQH) đều nhất trí về sự cần thiết gia nhập Công ước số 105 và cho rằng việc gia nhập Công ước phù hợp với đường lối đổi mới, hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước. Việc gia nhập Công ước số 105 vào thời điểm này là thận trọng, phù hợp với quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, vì lợi ích quốc gia, thực hiện chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, quyền công dân, không chấp nhận cưỡng bức bóc lột lao động. Đồng thời, các ý kiến ĐBQH cho rằng các nội dung của Công ước số 105 không trái với các quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH). Có ý kiến ĐBQH đề nghị Chính phủ nghiên cứu ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chi tiết về hành vi lao động cưỡng bức do đây là cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần triển khai thực hiện Công ước số 105 có hiệu quả.

Chủ nhiệm Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Nghị quyết phê chuẩn gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động Quốc tế về xóa bỏ lao động cưỡng bức.

UBTVQH cho biết, theo Bộ luật Lao động năm 2019 được Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV và bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Ngoài khái niệm về cưỡng bức lao động tại khoản 7 Điều 3 và quy định cấm cưỡng bức lao động tại khoản 2 Điều 8, Bộ luật Lao động năm 2019 có nhiều quy định cụ thể nhằm phòng, chống lao động cưỡng bức tương ứng với các trường hợp theo hướng dẫn của Tổ chức Lao động quốc tế, bao gồm:

Điều 17 quy định nghiêm cấm người sử dụng lao động: giữ bản chính giấy tờ tùy thân, văn bằng, chứng chỉ của người lao động; yêu cầu người lao động phải thực hiện biện pháp bảo đảm bằng tiền hoặc tài sản khác cho việc thực hiện hợp đồng lao động; buộc người lao động thực hiện hợp đồng lao động để trả nợ cho người sử dụng lao động;

Điều 35 quy định người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động không cần nêu lý do mà chỉ cần báo trước cho người sử dụng lao động. Trong một số trường hợp, người lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ngay lập tức mà không cần báo trước như trường hợp không được trả đủ lương hoặc trả lương không đúng thời hạn; bị người sử dụng lao động ngược đãi, đánh đập hoặc có lời nói, hành vi nhục mạ, hành vi làm ảnh hưởng đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; bị cưỡng bức lao động.

Điều 102 quy định người sử dụng lao động chỉ được khấu trừ tiền lương của người lao động trong một số trường hợp theo quy định. Người lao động có quyền được biết lý do khấu trừ tiền lương của mình và mức khấu trừ tiền lương hằng tháng không được quá 30% tiền lương thực trả hằng tháng của người lao động;

Khoản 2 Điều 107 quy định người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động làm thêm giờ khi có sự đồng ý của người lao động và đáp ứng các điều kiện quy định tại Bộ luật Lao động;

Điều 124 quy định về các hình thức xử lý kỷ luật lao động chỉ bao gồm: khiển trách; kéo dài thời hạn nâng lương không quá 06 tháng; cách chức; sa thải. Người sử dụng lao động không được tự đặt ra những hình thức xử lý kỷ luật khác ngoài 4 hình thức trên như hình thức cưỡng bước lao động;

Điều 127 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm khi xử lý kỷ luật lao động bao gồm: xâm phạm sức khỏe, danh dự, tính mạng, uy tín, nhân phẩm của người lao động; Phạt tiền, cắt lương thay việc xử lý kỷ luật lao động; Xử lý kỷ luật lao động đối với người lao động có hành vi vi phạm không được quy định trong nội quy lao động hoặc không thỏa thuận trong hợp đồng lao động đã giao kết hoặc pháp luật về lao động không có quy định.

Các đại biểu Quốc hội nghe Báo cáo tại Hội trường Diên Hồng.

Đối với Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tại Điều 297 quy định về Tội cưỡng bức lao động; điểm b khoản 1 Điều 150 quy định về Tội mua bán người; điểm b khoản 1 Điều 151 quy định về Tội mua bán người dưới 16 tuổi đối với các trường hợp chuyển giao hoặc tiếp nhận người để cưỡng bức lao động. Việc bổ sung quy định tội danh mới trong Bộ luật Hình sự đánh dấu bước tiến mới trong việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động cũng như quyết tâm của Việt Nam trong việc loại bỏ lao động cưỡng bức.

Về chế tài hành chính, theo Nghị định số 28/2020/NĐ-CP ngày 01/3/2020 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng đã có quy định về chế tài hành chính đối với các hành vi vi phạm cụ thể nêu trên.

UBTVQH tiếp thu ý kiến của các vị ĐBQHi và đề nghị Chính phủ tiếp tục thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật hiện hành; đồng thời nghiên cứu cụ thể hóa hơn nữa một số hành vi lao động cưỡng bức để thuận lợi cho quá trình áp dụng pháp luật và góp phần vào việc thực hiện hiệu quả tinh thần Công ước số 105.

Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định về lao động của phạm nhân trong trại giam tại điểm d khoản 2 Điều 27, khoản 1 Điều 33 Luật Thi hành án hình sự năm 2019. UBTVQH xin báo cáo như sau: Theo Công ước số 29 của Tổ chức Lao động quốc tế về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc, lao động của phạm nhân là một trong năm trường hợp ngoại lệ không coi là lao động cưỡng bức và theo Công ước số 29, nghĩa vụ lao động của phạm nhân là kết quả, hệ lụy xuất phát từ phán quyết của Tòa án. Nghĩa vụ lao động của phạm nhân không nhất thiết phải được quyết định tại bản án của Tòa án mà có thể theo quy định của pháp luật sau khi có bản án kết tội của Tòa án, trong trường hợp của nước ta là Luật Thi hành án hình sự.

Về vấn đề trên, theo chuyên gia của Tổ chức Lao động quốc tế tại Việt Nam, phạm nhân là những người có quyết định thi hành án của Tòa án; việc lao động của phạm nhân trong trại giam được thực hiện theo quy định của Luật Thi hành án hình sự và đặt dưới sự giám sát, quản lý của trại giam, đồng thời, họ không bị chuyển nhượng hoặc bị đặt dưới quyền sử dụng của tư nhân. Với 3 điều kiện trên, lao động của phạm nhân là trường hợp ngoại lệ, không bị coi là lao động cưỡng bức theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 2 của Công ước số 29.

Có ý kiến đề nghị xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc thực thi Công ước số 105; Có ý kiến đề nghị tăng cường công tác tuyên truyền nội dung Công ước số 105 đến các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp, đó là doanh nghiệp, người lao động, cơ quan quản lý nhà nước. UBTVQH xin tiếp thu và đề nghị Chính phủ bổ sung, hoàn thiện Kế hoạch thực hiện Công ước, nhất là công tác tuyên truyền, phổ biến Công ước số 105 đến người lao động, doanh nghiệp, đồng thời phân công rõ trách nhiệm và có lộ trình cho các Bộ, ngành trong triển khai thực hiện Công ước, tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động khi triển khai thực hiện trong hệ thống chính trị, doanh nghiệp và người dân.

Về dự thảo Nghị quyết: Ngày 20/5/2020, Tổng Thư ký Quốc hội đã gửi dự thảo Nghị quyết gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xóa bỏ lao động cưỡng bức. Đến ngày 25/5/2020, UBTVQH đã nhận được 358 ý kiến tham gia của các vị đại biểu Quốc hội, trong đó có 356 ý kiến nhất trí hoàn toàn dự thảo Nghị quyết, 02 ý kiến tham gia cụ thể một số nội dung và kỹ thuật văn bản.

Có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung cụm từ “hoàn thiện hệ thống pháp luật” và “những nội dung liên quan” vào khoản 1 Điều 3 dự thảo Nghị quyết, UBTVQH xin tiếp thu và thể hiện tại dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội. Có ý kiến ĐBQH đề nghị bổ sung cụm từ “nước CHXHCN Việt Nam” vào nội dung Điều 1 dự thảo Nghị quyết. UBTVQH xin báo cáo như sau: Theo Khoản 14 Điều 70 Hiến pháp năm 2013 quy định “Quốc hội quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế...” và Khoản 1 Điều 43 Luật Điều ước quốc tế năm 2016 quy định “Quốc hội quyết định gia nhập điều ước quốc tế...”, do đó, UBTVQH đề nghị Quốc hội cho giữ như dự thảo Nghị quyết trình Quốc hội.

Với Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội về việc gia nhập Công ước số 105 của Tổ chức Lao động quốc tế về Xóa bỏ lao động cưỡng bức, UBTVQH trình Quốc hội xem xét, quyết định./.

Bích Lan-Hoàng Quỳnh

Nguồn Quốc Hội: http://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=46111