Quy hoạch điện VIII và áp lực nhu cầu vốn để hiện thực hóa tham vọng xanh
Quy hoạch điện VIII đã được phê duyệt, tuy vậy, với kịch bản chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, áp lực tài chính sẽ lớn hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển công suất nguồn điện của Việt Nam.
Sau những cam kết mạnh mẽ tại COP26 và mới đây nhất là COP27, mục tiêu đạt phát thải ròng bằng “0”, Chính phủ Việt Nam đã điều chỉnh quan điểm phát triển nguồn điện từ Quy hoạch điện VII (QHĐ7) sang một phương án chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ hơn trong Quy hoạch điện VIII (QHĐ8).
"Xanh hóa" ngành năng lượng
Theo đó, QHĐ8 đã được đánh giá toàn diện hơn, đưa vào cân đối nhiều loại nguồn điện linh hoạt hơn. Về cơ bản, QHĐ7 và QHĐ8 đều được xây dựng nhằm đáp ứng kịch bản phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7% và tăng trưởng tiêu thụ điện trung bình khoảng 9% trong giai đoạn 2021-2030. Tuy nhiên, tỉ trọng cơ cấu nguồn điện đã có sự thay đổi đáng kể, trong đó, QHĐ8 đẩy mạnh phát triển các giải pháp xanh hơn với nỗ lực hoàn thành các thỏa thuận trong “Đối tác chuyển đổi năng lượng công bằng” (JETP) đã ký kết trong 2022.
Điện khí: Dự kiến điện khí sẽ là nguồn điện mũi nhọn trong giai đoạn 2021-2030 với tăng trưởng kép đạt 26%, mức cao nhất trong số các nguồn điện chính và chiếm 27% tổng công suất nguồn điện. Trong giai đoạn 2030-2050, tăng trưởng kép điện khí sẽ chậm lại đạt 4%, chiếm 15% tổng công suất. Đáng chú ý, nhằm đẩy nhanh tiến độ giảm phát thải, điện khí sẽ phải chuyển đổi một phần nhiên liệu đầu vào sang đốt kèm với hydro sau 20 năm hoạt động.
Điện gió: Với tiềm năng phát triển NLTT lớn của Việt Nam, dự kiến phát triển điện gió sẽ là mục tiêu quan trọng nhất trong cả ngắn và dài hạn, đặc biệt khi Việt Nam có những động lực nhằm đạt được những tiêu chuẩn của JETP đề ra với nỗ lực huy động được những nguồn vốn xanh, rẻ. Theo đó, điện gió sẽ tăng trưởng kép 25% trong 2021-2030 và 6% trong 2030-2050, chiếm lần lượt 13% và 14% tổng công suất nguồn trong 2 giai đoạn này. Hơn nữa, dự kiến Việt Nam sẽ đưa vào vận hành 6.000MW điện gió ngoài khơi đầu tiên trong 2021-2030, sau đó sẽ bắt đầu phát triển mạnh mẽ hơn nguồn điện này với tăng trưởng kép đạt 15% trong 2030-2050, chiếm 16% tổng công suất nguồn điện.
Điện mặt trời: Sau giai đoạn phát triển ồ ạt 2020-2021, dự kiến tăng trưởng công suất điện mặt trời sẽ chậm lại từ nay đến 2030. Tuy nhiên, QHĐ8 vẫn khuyến khích phát triển không giới hạn điện mặt trời với mục đích tự tiêu thụ. Theo đó, công suất điện mặt trời dự kiến tăng trưởng khiêm tốn giai đoạn 2021-2030 và tăng mạnh trở lại 15% từ 2030 trở đi, và chiếm 33% tổng công suất nguồn điện trong 2050.
Điện than: QHĐ8 chính thức loại bỏ tổng cộng 13.220MW điện than, đánh dấu hồi kết sớm cho nguồn điện này. Hiện tại, phương án phát triển nguồn cũng đã tính đến trường hợp 6.800MW được bổ sung quy hoạch nhưng có rủi ro không triển khai được do những khó khăn về thu xếp vốn, bù đắp bằng việc tiếp tục nâng cao tỉ trọng điện gió và điện khí. Trong thời gian tới, các nhà máy điện than trên 40 năm sẽ bị loại bỏ, trong khi các nhà máy khác sẽ phải nghiên cứu đốt kèm thêm ammoniac sau 20 năm hoạt động. Dự kiến công suất điện than sẽ tăng 2% trong 2021-2030 và giảm 1% trong 2030- 2050, tỉ trọng giảm từ 19% tổng công suất trong 2030 xuống còn 4% trong 2050.
Thủy điện: Công suất thủy điện tăng trưởng kép 1% trong 2021-2050 do nguồn điện này về cơ bản đã gần hết tiềm năng khai thác, chỉ còn dư địa để phát triển các dự án thủy điện vừa và nhỏ. Ở khía cạnh khác, QHĐ8 đã mạnh dạn đề cao hơn việc phát triển các nguồn điện lịnh hoạt khác như thủy điện tích năng, pin lưu trữ, và các nguồn điện sinh khối. Chúng tôi tin rằng sự bổ trợ của các nguồn điện mới này sẽ củng cố sự ổn định của hệ thống điện Việt Nam trong dài hạn
Áp lực nhu cầu vốn
Với kịch bản chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ, áp lực tài chính sẽ lớn hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu phát triển công suất nguồn điện của Việt Nam. So với QHĐ7, phương án chính thức trong QHĐ8 sẽ cắt giảm đáng kể việc phụ thuộc vào nhập khẩu nhiên liệu hóa thạch, và giảm thiểu gánh nặng nhập khẩu điện. Tuy nhiên, kế hoạch phát triển công suất trong QHĐ8 dự kiến sẽ làm tăng chi phí đầu tư của hệ thống trong giai đoạn 2021-2050 tùy kịch bản.
Theo tôi, QHĐ8 đã thống nhất được một phương án “đủ và xanh”, nhưng có thể sẽ khó thực hiện hơn QHĐ7 điều chỉnh do sự phát triển mạnh mẽ của các nguồn điện giá cao như điện khí và điện NLTT, trong khi các công nghệ thay thế nhiên liệu đầu vào như hydro, ammoniac cho các nhà máy nhiệt điện vẫn chỉ đang ở giai đoạn nghiên cứu và thử nghiệm.
Cụ thể, tổng mức đầu tư cho nguồn điện dự kiến đạt 114 tỷ USD trong giai đoạn 2021-30, phân bổ chủ yếu cho điện khí (30%) và điện gió (35%). Nhiệt điện than trong giai đoạn này cũng chiếm một phần không nhỏ khoảng 15% tổng nhu cầu vốn. Giai đoạn 2030-2050, tổng nhu cầu vốn sẽ tăng mạnh và đạt khoảng 495 tỷ USD, trong đó nhu cầu vốn cho điện gió chiếm phần lớn (63%) và sau đó là điện mặt trời (18%). Mặt khác, nhu cầu phát triển lưới điện dự kiến chiếm khoảng 11% tổng nhu cầu vốn ngành điện trong 2021-30 và 7% trong 2031-2050.
Doanh nghiệp nào sẽ được hưởng lợi?
Chúng tôi nhận thấy Công ty CP Tập đoàn PC1, Fecon (FCN), Công ty CP Tư vấn xây dựng điện 2 (TV2), những doanh nghiệp niêm yết nổi bật trong lĩnh vực xây lắp hạ tầng điện sẽ hưởng lợi sớm nhất do nhu cầu phát triển cao theo QHĐ8. PVS cũng là cái tên đáng chú ý, hưởng lợi trong dài hạn do tham gia và quá trình xây dựng điện gió ngoài khơi. Bên cạnh đó, các nhà phát triển điện khí, sở hữu dự án được phê duyệt sẽ có triển vọng tươi sáng hơn bao gồm Tổng côg ty Điện lực dầu khí VN (POW), Tổng Công ty Phát điện 3 (PGV), Công ty CP Tư vấn xây dựng điện 2 (TV2) và Tổng Công ty Phát điện 2 (GE2).
Hơn nữa, Tổng Công ty Khí Việt Nam (GAS) cũng là doanh nghiệp được hưởng lợi từ luận điểm này do tham gia vào chuỗi điện khí LNG với việc phát triển các dự án kho cảng LNG. Đồng thời đánh giá QHĐ8 được ban hành sẽ là cơ hội để các doanh nghiệp NLTT hàng đầu có kế hoạch tiếp tục phát triển thêm công suất như Trung Nam, BCG, REE, GEG mở rộng công suất. Tuy nhiên, yếu tố ảnh hưởng rõ ràng nhất đến triển vọng của nhóm như chính sách giá hiện tại vẫn chưa rõ ngày ban hành. Do đó, với việc phê duyệt QHĐ8 sẽ thúc đẩy tiến độ các dự án mỏ khí giá trị hàng tỷ USD bị đình trệ lâu năm như Lô B, Cá Voi Xanh trong những năm tới.