SỚM HOÀN THIỆN QUY HOẠCH CÓ TÍNH CHẤT KỸ THUẬT CHUYÊN NGÀNH LIÊN QUAN ĐẾN TÀI NGUYÊN NƯỚC
Cho ý kiến về nội dung quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, nhiều đại biểu nhấn mạnh, cần sớm hoàn thiện lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến tài nguyên nước.
TỔNG THUẬT SÁNG 07/01: QUỐC HỘI THẢO LUẬN VỀ QUY HOẠCH TỔNG THỂ QUỐC GIA THỜI KỲ 2021-2030, TẦM NHÌN ĐẾN NĂM 2050
Theo Tờ trình của Chính phủ tại Kỳ họp bất thường lần thứ 2 về định hướng sử dụng tài nguyên quốc gia, Chính phủ đã chủ động, ưu tiên và bảo đảm nguồn nước về trữ lượng và chất lượng cấp cho sinh hoạt; bảo đảm nguồn nước cung cấp nước cho đô thị, nông thôn, góp phần nâng tỷ lệ sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh của dân cư đô thị đạt 95 - 100%, nông thôn đạt 93 - 95% vào năm 2030. Phân bổ, chia sẻ tài nguyên nước hài hòa, hợp lý giữa các ngành, các địa phương, ưu tiên sử dụng nước cho sinh hoạt, sử dụng nước hiệu quả mang lại giá trị kinh tế cao, bảo đảm dòng chảy tối thiểu, đạt được hiệu quả tổng hợp về kinh tế, xã hội, môi trường trong cả mùa lũ lẫn mùa kiệt trên các lưu vực sông. Giải quyết vấn đề mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước giữa các ngành, lĩnh vực, giữa thượng lưu với hạ lưu, giữa các địa phương trên các lưu vực sông và những mâu thuẫn có tính xuyên quốc gia trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Tập trung khai thác và sử dụng hiệu quả tài nguyên nước tại các lưu vực sông Hồng - Thái Bình, lưu vực sông Vu Gia - Thu Bồn, lưu vực sông Cả, lưu vực sông Đồng Nai, lưu vực sông Cửu Long, lưu vực sông Ba.
Đồng thời, Việt Nam chủ động và tham gia tích cực vào các hiệp định quốc tế, hiệp định hợp tác khu vực về tài nguyên nước, hiệp ước song phương và các cơ chế hợp tác đa phương, đẩy mạnh hợp tác quốc tế về tài nguyên nước trên nguyên tắc tôn trọng luật pháp quốc tế và lợi ích của từng quốc gia có liên quan trong việc khai thác, sử dụng và quản lý nguồn nước xuyên biên giới.
Thẩm tra nội dung này, đối với định hướng khai thác, sử dụng tài nguyên nước, một số ý kiến của Ủy ban Kinh tế đề nghị bổ sung nội dung sử dụng tài nguyên nước trong mùa và làm rõ chỉ tiêu định lượng cụ thể cho mục tiêu khai thác, sử dụng tài nguyên nước “bảo đảm khai thác không vượt quá giới hạn…”. Ủy ban Kinh tế đề nghị báo cáo, làm rõ nội dung này.
An ninh nguồn nước là thách thức hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai
Thảo luận tại hội trường về nội dung này, đại biểu Khang Thị Mào – Đoàn ĐBQH tỉnh Yên Bái khẳng định vấn đề bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập hồ chứa nước luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và đạt được nhiều kết quả tích cực, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, đây cũng là thách thức hiện hữu trong cả hiện tại và tương lai bởi các lý do như sau: Mặc dù có 3450 con sông, suối với chiều dài từ 10km trở lên, với tổng lượng nước trung bình hàng năm hiện nay khoảng 840 tỷ m3 nhưng khoảng 60% nguồn nước mặt tạo ra bởi các lưu lượng sông nằm ngoài lãnh thổ nên chúng ta gặp khó khăn trong việc chủ động quản lý, khai thác nguồn nước. Hệ sinh thái rừng của cả nước có sự mở rộng liên tục về diện tích sông, chất lượng rừng suy giảm, mặc dù tỷ lệ che phủ rừng 42,01% nhưng diện tích rừng đầu nguồn có khả năng sinh thủy thấp, chỉ có gần 0,77 triệu hecta là rừng giàu tương đương 5,2% tổng diện tích rừng cả nước, diện tích rừng gỗ trung bình là 2,165 triệu hecta tương đương 21,1%, còn lại là các hệ sinh thái rừng nghèo, nghèo kiệt.
Theo đại biểu, biến đổi khí hậu với thời tiết cực đoan đã tạo ra những biến đổi khó lường. Tình trạng hạn hán kéo dài ở một số tỉnh Nam Trung Bộ, nước biển dâng, thiếu nước đầu nguồn làm gia tăng tình trạng xâm nhập mặn ở nhiều tỉnh Tây Nam Bộ tác động lớn đến sản xuất và sinh hoạt của người dân. Mặc dù thiếu nước, song hiệu quả sử dụng nước còn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của thế giới. Việc ứng dụng công nghệ tiết kiệm nước còn hạn chế, trong sản xuất nông nghiệp tình trạng thiếu nước xảy ra thường đi cùng với mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước giữa các địa phương, các ngành, lĩnh vực và mâu thuẫn này có xu hướng gia tăng.
Đồng thời, quá trình đô thị hóa với tốc độ cao, dân số tăng nhanh làm gia tăng tình trạng ô nhiễm nguồn nước, nhất là tại đô thị, khu công nghiệp, khu vực hạ nguồn của lưu vực nhiều con sông, vấn đề an toàn đập hồ chứa nước cũng là một nhiệm vụ cấp bách do sự phát triển của hệ thống thủy lợi, thủy điện của Việt Nam có lịch sử rất lâu đời, nhiều công trình thủy lợi, trong đó có nhiều hồ chứa bị xuống cấp, ảnh hưởng lớn đến an ninh nguồn nước, an toàn cho sản xuất, tính mạng và tài sản của Nhân dân cần được đặc biệt quan tâm, chú trọng. Công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch tài nguyên nước còn nhiều bất cập, thiếu tầm nhìn, tính liên kết, liên thông mang tính vùng, khu vực còn nhiều hạn chế. Công tác tổ chức thực hiện đảm bảo đúng quy hoạch chưa thật tốt, vẫn còn tình trạng phá vỡ quy hoạch, không bảo vệ được quy hoạch. Việc lấn chiếm hành lang bảo vệ lưu vực sông, nguồn nước, dòng chảy, công trình thủy lợi, thủy điện, đê điều vẫn diễn ra.
Cần quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến tài nguyên nước
Tại phiên phọp, đại biểu Khang Thị Mào, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng và một số đại biểu cơ bản tán thành với các quan điểm về tổ chức không gian phát triển, trong đó có đặt ra yêu cầu sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, nhất là tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng và các loại khoáng sản, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước, bảo vệ môi trường và chủ động phòng, chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Trên cơ sở quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ được Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp bất thường lần thứ 2 này, các đại biểu đề nghị Chính phủ một số nội dung như sau:
Thứ nhất, sớm hoàn thiện lập quy hoạch ngành quốc gia, quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành liên quan đến tài nguyên nước theo Kết luận số 36 ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị.
Thứ hai, thực hiện có kế hoạch đầu tư dài hạn của ngân sách nhà nước đối với công tác bảo vệ, kiểm soát nguồn nước, hệ thống đê điều, hệ thống thủy lợi, hệ thống cung cấp nước sạch, trong đó ưu tiên nhiệm vụ cấp bách trữ nước, chuyển nước cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng khan hiếm nước, vùng bị ảnh hưởng lớn do biến đổi khí hậu. Trước mắt, bố trí đủ nguồn lực để sửa chữa, nâng cấp một số hồ, đập hư hỏng nặng, bảo đảm an toàn hồ, đập các nguồn nước mưa lũ. Bên cạnh nguồn lực từ ngân sách nhà nước cần thực hiện cơ chế thị trường đối với giá dịch vụ nước phục vụ sinh hoạt và sản xuất theo nguyên tắc Nhà nước và Nhân dân cùng làm, từng bước tính đủ theo quy định của Luật Thủy lợi về giá nước phục vụ sản xuất và đời sống. Có lộ trình hỗ trợ hợp lý cho nông dân, cho hộ nghèo, hộ yếu thế theo xu thế giảm dần sự bao cấp của Nhà nước.
Thứ ba, tăng cường công tác bảo vệ và nâng cấp chất lượng rừng, đặc biệt là rừng phòng hộ đầu nguồn. Sớm nghiên cứu nâng cấp mức hỗ trợ khoán bảo vệ rừng phù hợp với chất lượng từng loại rừng thông qua việc đa dạng hóa và mở rộng các nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng phù hợp với quy hoạch, quy định của pháp luật để khuyến khích người dân tích cực tham gia bảo vệ và phát triển rừng, nhất là tại các địa phương miền núi phía Bắc, khu vực Tây Nguyên là nơi có tỷ lệ che phủ rừng cao.
Thứ tư, đề nghị bổ sung nội dung xác định hệ thống giám sát tài nguyên nước và khai thác sử dụng nước và nội dung xác định công trình điều tiết, khai thác, sử dụng phát triển tài nguyên nước. Phần quy hoạch sử dụng đất đề nghị bổ sung chỉ tiêu sử dụng đất theo khu vực chức năng, căn cứ pháp lý quy hoạch của các ngành, lĩnh vực liên quan về đất đai, từ đó đưa ra chỉ tiêu sử dụng đất theo khu vực chức năng, bổ sung chỉ tiêu sử dụng đất khu du lịch.
Nguồn Quốc Hội: https://quochoi.vn/tintuc/pages/tin-hoat-dong-cua-quoc-hoi.aspx?itemid=72214