Tăng cường trách nhiệm của tổ chức khai thác khoáng sản
Chiều 5/11, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 8, Quốc hội họp phiên toàn thể xem xét về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Địa chất và Khoáng sản (ĐC&KS).
Trình bày tóm tắt báo cáo một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật ĐC&KS, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy cho biết, về quyền lợi, trách nhiệm của địa phương, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân nơi có tài nguyên địa chất khoáng sản được khai thác (Điều 8), có ý kiến đề nghị bổ sung quy định tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản (KTKS) hằng năm hỗ trợ chi phí đầu tư, nâng cấp, duy tu, xây dựng hạ tầng, bảo vệ môi trường nhằm tăng cường hơn trách nhiệm của tổ chức KTKS.
Đối với nội dung này, có 2 loại ý kiến. Ý kiến thứ nhất, bổ sung điểm đ khoản 1 Điều 8 theo Phương án 1 như dự thảo Luật (Chính phủ đề nghị bổ sung). Ưu điểm là tạo căn cứ pháp lý để bắt buộc tổ chức, cá nhân KTKS thực hiện trách nhiệm hỗ trợ kinh phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình bảo vệ môi trường trên địa bàn theo mức do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định.
Nhược điểm là quy định này chuyển từ trách nhiệm hỗ trợ với mức hỗ trợ mang tính chất tự nguyện của Luật Khoáng sản hiện hành thành trách nhiệm hỗ trợ mang tính bắt buộc là chính sách mới chưa có đánh giá tác động; không quy định nguyên tắc về mức thu dễ dẫn đến tùy tiện trong áp dụng.
Chủ nhiệm Lê Quang Huy cho rằng, việc cho phép "phần kinh phí hỗ trợ của tổ chức, cá nhân KTKS được hạch toán vào chi phí sản xuất" dẫn đến chưa thống nhất với Luật thuế thu nhập doanh nghiệp trái với nguyên tắc chi phí được tính trừ khi xác định thu nhập chịu thuế là chi phí liên quan trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh.
Mặt khác, tổ chức, cá nhân KTKS đã thực hiện nộp các nghĩa vụ thuế, phí, tiền cấp quyền KTKS vào ngân sách Nhà nước. Nhà nước điều tiết, phân bổ ngân sách theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước để duy tu, nâng cấp hạ tầng, bảo vệ môi trường (nếu chưa phù hợp thì cần điều chỉnh tăng các khoản thu này).
Do vậy, việc quy định tổ chức, cá nhân KTKS phải hỗ trợ mang tính chất bắt buộc là không công bằng đối với các lĩnh vực kinh tế khác và tạo gánh nặng chi phí cho tổ chức, cá nhân KTKS.
Ý kiến thứ hai là giữ như quy định của Luật Khoáng sản hiện hành theo Phương án 2 tại khoản 3 Điều 8 dự thảo Luật. Ưu điểm là không phát sinh chính sách mới. Bảo đảm bản chất của việc hỗ trợ kinh phí (cho tổ chức, cá nhân KTKS thực hiện trách nhiệm hỗ trợ nhưng tự nguyện về mức hỗ trợ).
Nhược điểm là theo phương án này dễ dẫn đến việc tổ chức, cá nhân KTKS tùy ý trong việc thực hiện trách nhiệm hỗ trợ (không bắt buộc). Hiện nay, ít địa phương triển khai chính sách này và có khác nhau trong việc quy định trách nhiệm (bắt buộc hay tự nguyện) của tổ chức, cá nhân KTKS.
Về tiền cấp quyền KTKS (Điều 101), có ý kiến cho rằng, quy định về tiền cấp quyền là không khả thi, chưa phù hợp với thực tiễn; một số ý kiến đề nghị bỏ nội dung thu tiền cấp quyền KTKS, đồng thời xem xét tăng mức thu thuế tài nguyên khoáng sản; đề nghị làm rõ sự khác nhau giữa tiền cấp quyền KTKS và thuế tài nguyên và có giải pháp cắt giảm thủ tục hành chính.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, qua 13 năm thực hiện, chính sách tiền cấp quyền KTKS đã góp phần hạn chế đầu cơ, giữ mỏ để chuyển nhượng, lựa chọn nhà đầu tư có đủ năng lực tài chính, đồng thời cũng là một nguồn thu đáng kể cho ngân sách Nhà nước.
Để giải quyết những hạn chế, vướng mắc hiện nay, dự thảo Luật đã quy định theo hướng thu tiền cấp quyền KTKS theo năm và được quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế.
Với quy định trên, tiền cấp quyền KTKS sẽ không bị ảnh hưởng bởi trữ lượng địa chất, trữ lượng không được khai thác, không thể khai thác hết; hoặc vì lý do khách quan chưa thể đưa mỏ vào khai thác.
Liên quan đến sự khác nhau giữa tiền cấp quyền KTKS và thuế tài nguyên, đối với thuế tài nguyên, tổ chức, cá nhân tự kê khai sản lượng khai thác thực tế và nộp theo tháng và được quyết toán theo năm.
Đối với tiền cấp quyền KTKS, dự thảo Luật đang quy định theo hướng cơ quan quản lý Nhà nước sẽ phê duyệt theo trữ lượng khoáng sản, tổ chức, cá nhân sẽ nộp 1 lần vào đầu năm và được quyết toán theo sản lượng khai thác thực tế theo thời kỳ (có thể 1 năm, 3 năm hoặc 5 năm). Số tiền cấp quyền KTKS nộp thừa sẽ được chuyển sang kỳ nộp tiếp theo, trường hợp nộp thiếu thì nộp bổ sung.
Còn đối với tiền cấp quyền KTKS, trên cơ sở quyết định phê duyệt và quyết toán thuế tài nguyên, tổ chức, cá nhân chỉ phải nộp 1 năm 1 lần, không làm phát sinh thủ tục hành chính trong việc kê khai, nộp tiền cấp quyền KTKS…