Thuế giá trị gia tăng điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội

Bộ Tài chính cho biết, trong hệ thống chính sách thuế hiện nay, thuế giá trị gia tăng là nguồn thu quan trọng, ổn định, bảo đảm tỷ lệ động viên hợp lý cho ngân sách nhà nước. Thuế giá trị gia tăng trong thời gian qua đã thể hiện được vai trò điều tiết thu nhập để đảm bảo công bằng xã hội.

Đảm bảo tỷ lệ động viên hợp lý về ngân sách

Liên quan đến mức thuế giá trị gia tăng (GTGT), mới đây, cử tri tỉnh Bạc Liêu đã có kiến nghị gửi Bộ Tài chính về đề nghị xem xét, sửa đổi, bổ sung lại Luật Thuế GTGT, sửa đổi việc người tiêu dùng phải chịu 10% thuế GTGT do người dân đã trả phí tiêu dùng thì việc phải chịu thêm 10% thuế GTGT như vậy là không phù hợp.

Thuế GTGT có vai trò điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Ảnh TL minh họa

Thuế GTGT có vai trò điều tiết thu nhập, đảm bảo công bằng xã hội. Ảnh TL minh họa

Bộ Tài chính cho biết, thuế GTGT là sắc thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Thuế GTGT được cấu thành trong giá cả hàng hóa, dịch vụ và do người tiêu dùng chịu khi mua hàng hóa, sử dụng dịch vụ.

122 nước có mức thuế suất phổ thông từ 13- 27%

Theo thống kê của Bộ Tài chính, có 122 nước có mức thuế suất phổ thông từ 13- 27%; trong đó, 84 nước có mức thuế suất từ 17-27%; 26 nước có mức thuế suất phổ thông ở mức 10% đến dưới 13% và 16 nước có mức thuế suất phổ thông dưới 10%.

Các nước láng giềng của Việt Nam như Lào, Indonesia, Campuchia cũng có mức thuế suất phổ biến là 10%; Trung Quốc có mức thuế suất 13%; Philippines có mức thuế suất 12%.

Trên cơ sở tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện Luật Thuế GTGT cho thấy, thuế GTGT trong thời gian qua đã thể hiện được vai trò điều tiết thu nhập để đảm bảo công bằng xã hội.

Đồng thời, góp phần điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua điều tiết tiêu dùng và tiết kiệm, tháo gỡ khó khăn và thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển; chú trọng khuyến khích phát triển nông nghiệp, giảm chi phí đối với hàng hóa, dịch vụ thiết yếu, đảm bảo an ninh xã hội và định hướng sản xuất, tiêu dùng.

Cũng theo Bộ Tài chính, trong hệ thống chính sách thuế hiện nay, thuế GTGT là nguồn thu quan trọng, ổn định, bảo đảm tỷ lệ động viên hợp lý cho ngân sách nhà nước nhằm đáp ứng nguồn tài chính cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.

Theo thống kê, số thu về thuế GTGT chiếm tỷ lệ cao trong tổng số thu về thuế, cụ thể: năm 2022 khoảng 24,5%, năm 2023 khoảng 23%.

Mức thuế phổ thông 10% là tương đối thấp

Theo Bộ Tài chính, qua tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, các nước phát triển và các nước đang phát triển đều thực hiện cơ cấu lại thu ngân sách nhà nước theo hướng tăng cường vai trò của thuế GTGT, coi thuế GTGT là nguồn thu chủ yếu cho ngân sách nhà nước.

Thuế GTGT là sắc thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ảnh TL minh họa

Thuế GTGT là sắc thuế gián thu tính trên giá trị tăng thêm của hàng hóa, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Ảnh TL minh họa

Số lượng quốc gia áp dụng thuế GTGT/thuế hàng hóa và dịch vụ ngày càng tăng, từ khoảng 140 nước năm 2004 lên 160 nước năm 2014, 166 nước năm 2016, 195 nước năm 2020. Cùng với việc tăng số lượng các nước sử dụng thuế GTGT để điều tiết tiêu dùng cũng như tăng số thu ngân sách thì xu thế tăng thuế suất GTGT diễn ra phổ biến.

Theo số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) về mức thuế suất của 164 quốc gia, vùng lãnh thổ năm 2020, có thể thấy mức thuế suất thuế GTGT phổ thông 10% của Việt Nam tương đối thấp.

Thống kê cụ thể cho thấy: có 122 nước có mức thuế suất phổ thông từ 13- 27%; trong đó, 84 nước có mức thuế suất từ 17-27%; 26 nước có mức thuế suất phổ thông ở mức 10% đến dưới 13% và 16 nước có mức thuế suất phổ thông dưới 10%.

Các nước láng giềng của Việt Nam như Lào, Indonesia, Campuchia cũng có mức thuế suất phổ biến là 10%; Trung Quốc có mức thuế suất 13%; Philippines có mức thuế suất 12%.

Thảo luận về dự thảo Luật này tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV, đại biểu Trần Thị Thanh Hương (An Giang) và nhiều đại biểu phát biểu đồng tình cho rằng, cần thiết rà soát, sửa đổi Luật cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Theo nữ đại biểu, qua một thời gian dài thực hiện, Luật Thuế GTGT đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định với nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, vì vậy, việc sửa đổi Luật là cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 và Đề án định hướng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV.

Trên thực tế, khi thảo luận về dự án Luật Thuế GTGT sửa đổi, có một số đại biểu đề nghị Chính phủ nghiên cứu lộ trình tăng thuế suất thuế GTGT.

Tuy nhiên, Chính phủ sẽ tiếp tục nghiên cứu thời điểm thích hợp thực hiện mục tiêu này để trình Quốc hội xem xét quyết định trong giai đoạn thực hiện tiếp theo của Chiến lược cải cách hệ thống thuế./.

Giữ 3 mức thuế 0%, 5% và 10%

Về quy định thuế suất thuế GTGT, cơ bản Dự thảo Luật vẫn giữ 3 mức thuế suất thuế GTGT như hiện nay, gồm: 0%, 5% và 10%.

Một số chuyên gia kinh tế bày tỏ đồng tình nhất trí cao với cơ quan soạn thảo đã chuyển một số hàng hóa dịch vụ từ thuế suất 5% sang nhóm 10%, thu hẹp dần thuế suất 5%, hướng đến một thuế suất thống nhất. Ngoài ra, có ý kiến đề nghị nghiên cứu chuyển thêm một số sản phẩm đang áp dụng thuế suất 5% sang 10%, mà các sản phẩm này không phải là các sản phẩm hàng hóa thuộc danh mục khuyến khích, ưu đãi hoặc khó xác định thuế suất, hoặc không tương ứng về thuế suất với các sản phẩm khác trong thực thi để tăng cường tính công bằng, minh bạch, thống nhất.

Minh Anh

Nguồn Thời báo Tài chính: https://thoibaotaichinhvietnam.vn/thue-gia-tri-gia-tang-dieu-tiet-thu-nhap-dam-bao-cong-bang-xa-hoi-161750.html