Triển lãm ''Quốc hiệu và kinh đô nước Việt trong Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới''

Ngày 18/12, tại Trường Đại học Đà Lạt, Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước (Bộ Nội vụ) phối hợp cùng UBND TP Đà Lạt tổ chức triển lãm 'Quốc hiệu và kinh đô nước Việt trong Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới' nhân dịp Festival Hoa Đà Lạt 2019.

Cắt băng khai mạc triển lãm

Cắt băng khai mạc triển lãm

Triển lãm giới thiệu đến công chúng 32 hình ảnh, tài liệu, hiện vật trong Di sản Mộc bản triều Nguyễn ghi chép về nguồn gốc, ý nghĩa của các quốc hiệu chính thức và kinh đô của nước ta trải qua các thời kỳ lịch sử, từ buổi đầu dựng nước đến thế kỷ XIX. Từ những lần thay đổi quốc hiệu, dời chuyển kinh đô, có thể thấy nước ta đã trải qua nhiều thăng trầm với những biến động. Mỗi lần đổi dời có một ý nghĩa khác nhau nhưng đều đánh một dấu mốc trọng đại trong lịch sử dân tộc.

Trao tặng hình ảnh Mộc bản khắc Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn năm 1010

Trao tặng hình ảnh Mộc bản khắc Chiếu dời đô của vua Lý Công Uẩn năm 1010

Lần theo nguồn sử liệu, tên nước ta đầu tiên được nhắc đến là Xích Quỷ (tên một vì sao màu đỏ) của Kinh Dương Vương. Kinh Dương Vương lấy con gái Thần Long sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng nở trăm người con. Con trai cả theo mẹ lên núi đóng đô ở Phong Châu là Hùng Vương thứ nhất. Hùng Vương lên ngôi đặt tên nước là Văn Lang, Nhà nước Văn Lang truyền được 18 đời thì Thục Phán – An Dương Vương kế tục, đổi quốc hiệu là Âu Lạc vào năm 257, vua cho xây thành cuốn tròn xoáy trôn ốc gọi là Loa Thành. An Dương Vương thất bại trước quân xâm lược Triệu Đà, nước ta rơi vào 1000 năm Bắc thuộc. Trong 1000 năm ấy nhiều cuộc nổi dậy lật đổ ách thống trị phương Bắc; trong đó, vào năm 40, Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa, đánh đuổi thái thú Tô Định, xưng vương, đóng đô ở Mê Linh (Vĩnh Phúc ngày nay). Năm 544, Lý Bí lãnh đạo nhân dân đánh bại nhà Lương, lên ngôi xưng Lý Nam Đế đổi quốc hiệu là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên với khát vọng nền độc lập muôn đời; Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục nối ngôi xưng là Triệu Việt Vương. Năm 938, Ngô Quyền đánh bại quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, mở ra thời kỳ độc lập cho dân tộc, đóng đô ở Loa Thành. Năm 938, sau khi dẹp loạn 12 sứ quân, Đinh Tiên Hoàng đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt đóng đô ở Hoa Lư. Năm 1010, vua Lý Công Uẩn dời đô về thành Đại La (Thăng Long); năm 1054, vua Lý Thánh Tông đổi tên nước thành Đại Việt. Năm 1400, Hồ Quý Ly lên ngôi đổi quốc hiệu là Đại Ngu, dời đô về An Tôn (Thanh Hóa). Quốc Đại Ngu thể hiện ước mơ về một giang sơn bình yên, rộng mở, “Ngu” có nghĩa là sự yên vui. Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi đóng đô ở Đông Quan, lấy quốc hiệu Đại Việt. Năm 1786, Nguyễn Huệ tự xưng Bắc Bình Vương, đóng đô ở Phú Xuân. Năm 1804, vua Gia Long – Nguyễn Ánh xuống chiếu đổi quốc hiệu là Việt Nam. Năm 1838, vua Minh Mạng đổi quốc hiệu thành Đại Nam, tuy nhiên tên Việt Nam đã thành tên gọi quen thuộc ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân từ đầu thế kỷ XIX.

Sinh viên tìm hiểu lịch sử qua các hiện vật, hình ảnh tại triển lãm

Sinh viên tìm hiểu lịch sử qua các hiện vật, hình ảnh tại triển lãm

Phát biểu tại lễ khai mạc, ông Đặng Thanh Tùng - Cục trưởng Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước nhấn mạnh: Triển lãm không chỉ tái hiện lại bức tranh sinh động về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt từ xa xưa thông qua những lần đặt, đổi quốc hiệu và dời chuyển kinh đô, mà còn thể hiện khát vọng và ý chí độc lập, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc của các bậc tiền nhân. Đây là cơ hội để công chúng, đặc biệt là sinh viên, giáo dục lòng yêu nước trong nhân dân và thế hệ trẻ.

Triển lãm diễn ra từ ngày 18 - 24/12/2019.

QUỲNH UYỂN

Nguồn Lâm Đồng: http://baolamdong.vn/vhnt/201912/trien-lam-quoc-hieu-va-kinh-do-nuoc-viet-trong-moc-ban-trieu-nguyen-di-san-tu-lieu-the-gioi-2979156/