Tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn người cán bộ và sự vận dụng hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trò của con người, đặc biệt là người cán bộ. Người từng nói: 'Con người là vốn quý nhất, là lực lượng to lớn nhất' ([i]) và Người luôn coi 'Cán bộ là gốc của mọi công việc' ([ii]), 'Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém' ([iii]). Vì vậy nếu có được đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm là điều kiện tiên quyết để đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi.
Từ đó trong hoạt động cách mạng của mình, tư tưởng về tiêu chuẩn người cán bộ của Chủ tịch Hồ Chí Minh được hình thành qua các công việc cụ thể của thực tiễn, không chỉ phát huy vai trò trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
Sự hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn người cán bộ.
Năm 1911, khi mới 21 tuổi, Hồ Chí Minh với tên gọi Văn Ba, với đôi bàn tay trắng và lòng yêu nước cháy bỏng đã bắt đầu hành trình ra nước ngoài tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc. Trên hành trình ấy, Người luôn tìm tòi, miệt mài vừa học vừa làm. Trước các vấn đề của cuộc sống, Người "luôn đặt câu hỏi "tại sao?", và cố gắng tìm lời giải đáp từ trong chính thực tiễn cuộc sống". Từ đó, Người phân biệt được bạn, thù, cơ sở quan trọng cho tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục cán bộ sau này.
Năm 1919, tại Pháp, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp - "tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" và từ đây Người bắt đầu rèn luyện cách hoạt động theo con đường của tổ chức. Người tham gia sinh hoạt câu lạc bộ Phôbua, do Léo Poldes, một trí thức tiến bộ Pháp sáng lập và lãnh đạo, với nhiều nội dung phong phú và bổ ích. Bên cạnh đó, Người tham dự khá đều đặn các chương trình, sinh hoạt của câu lạc bộ và tham gia Hội nghệ thuật và khoa học, Hội những người bạn của nghệ thuật, Hội du lịch, để có điều kiện đi tham quan các bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ thuật và nhiều nơi ở Italia, Thụy Sĩ, Đức… Từ những hoạt động phong phú đó, Người có điều kiện hiểu sâu sắc hơn về đời sống chính trị, xã hội, về tổ chức bộ máy của Nhà nước Pháp, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Pháp và những bất công trong lòng xã hội Pháp. Đồng thời Người nhận thức rõ hơn về con đường, mục tiêu và những phương thức để đấu tranh giải phóng của nhân dân ở các thuộc địa. Có thể coi đây là một sự thể nghiệm đầu tiên của Hồ Chí Minh về vấn đề tổ chức con người, để từ đó tạo cơ sở cho việc hình thành tư tưởng về cán bộ của Người sau này.
Mốc quan trọng đánh dấu quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là từ năm 1920, khi bắt đầu tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin. Những quan điểm về cán bộ và công tác cán bộ của chủ nghĩa Mác-Lênin có ảnh hưởng lớn tới sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. Đó là những quan điểm về vị trí, vai trò của cán bộ, về tiêu chuẩn cán bộ, về huấn luyện, sử dụng, kiểm soát cán bộ,… Thời điểm này, Hồ Chí Minh cũng trở thành một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và là người Cộng sản Việt Nam đầu tiên. Một trong những vấn đề bức xúc mà Hồ Chí Minh nhận thấy lúc ấy đối với cách mạng Việt Nam là cần phải có một bộ phận ưu tú những con người là đầu tầu, nòng cốt thúc đẩy và nắm lấy thời cơ cho cách mạng Việt Nam. Đội ngũ ấy sẽ có trách nhiệm thức tỉnh, tổ chức đoàn kết quần chúng, huấn luyện và đưa họ ra đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho chính mình.
Do đó, công việc đầu tiên của Hồ Chí Minh khi tới Trung Quốc cuối năm 1924 là tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại Quảng Châu. Đầu tiên là những thanh niên hăng hái nhất trong Tâm Tâm xã. Dần dần, Người mở rộng địa bàn hoạt động của mình. Những hoạt động bước đầu đã giúp Nguyễn Ái Quốc tìm được chỗ dựa, hình thành được nhóm trung kiên để triển khai công việc. Tiếp đó, Người đã khẩn trương, chủ động và cẩn trọng tiến hành xây dựng tổ chức cách mạng theo từng bước: tiếp xúc và tìm hiểu những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc, để lập ra nhóm bí mật làm hạt nhân. Từ đây, Người tiến tới thành lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng hơn nhằm tập hợp những thanh niên yêu nước trong và ngoài nước. Đó là tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên được thành lập 6-1925. Việc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc. Đây là một tổ chức quá độ, phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi đó, nhằm đưa chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng mới vào phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân ta. Thông qua những hội viên của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, thông qua phong trào vô sản hóa, luồng tư tưởng mới của thời đại đã xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, làm thay đổi tính chất, chiều hướng của phong trào đấu tranh cách mạng, đưa đến sự thắng lợi của khuynh hướng vô sản. Như vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ đã từng bước được hình thành, góp phần rất lớn vào công tác đào tạo cán bộ sau này.
Khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập năm 1930, Hồ Chí Minh càng giành sự quan tâm nhiều hơn tới vấn đề cán bộ, đặc biệt là công tác đào tạo cán bộ. Người khẩn thiết đề nghị với Quốc tế Cộng sản cần tăng cường đào tạo cán bộ cho Việt Nam và các nước thuộc địa. Người cũng đề xuất biện pháp xuất bản những cuốn sách nhỏ để cán bộ nghiên cứu, học tập. Người chỉ đạo trong nước: "Đảng phải đấu tranh không nhân nhượng chống tư tưởng bè phái, và tổ chức học tập có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin để nâng cao trình độ văn hóa và lý luận cho các đảng viên. Phải giúp đỡ cán bộ không đảng phái nâng cao trình độ…" ([iv]). Đặc biệt, đầu năm 1941, tại Nậm Quang (sát biên giới Việt Trung), Hồ Chí Minh đã mở lớp huấn luyện cho 43 cán bộ cách mạng Việt Nam, chương trình và tài liệu huấn luyện do chính Người tổ chức biên soạn. Được Người đặc biệt dìu dắt, các cán bộ này đều trở nên những cán bộ cốt cán, sau này giữ những trọng trách của Đảng. Tháng 5/1941, Hồ Chí Minh triệu tập và chủ trì Hội nghị Trung ương 8 của Đảng, đề ra nhiệm vụ bức thiết cho cách mạng Đông Dương là giải phóng dân tộc, đề xuất thành lập Việt Nam độc lập đồng minh hội, là mặt trận thống nhất đoàn kết rộng rãi toàn dân tộc. Ngay sau đó, Người mở lớp huấn luyện chính trị- quân sự ngắn hạn cho cán bộ tại Cao Bằng và chỉ đạo tổ chức nhiều lớp huấn luyện cán bộ khác, đồng thời trực tiếp giảng dạy hoặc nói chuyện thời sự cho các học viên tại các lớp này. Cuối năm 1944, Hồ Chí Minh trao đổi với Võ Nguyên Giáp về chuẩn bị chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, mà một trong những nhiệm vụ của đội là tập trung huấn luyện cán bộ với phương pháp là chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. Khi về tới Tân Trào vào tháng 5/1945, Người chỉ thị khẩn trương thành lập trường đào tạo cán bộ mang tên Trường Quân chính kháng Nhật, và căn dặn: "Lúc nào cũng phải chú ý xây dựng chi bộ, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên và các phần tử trung kiên" ([v]).
Toàn bộ những hoạt động tích cực kể trên của Hồ Chí Minh trước Cách mạng tháng Tám 1945 đã góp phần hết sức quan trọng vào việc xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ ban đầu cho cách mạng Việt Nam. Chính lực lượng ấy đã trở thành một trong những nhân tố nòng cốt quyết định thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945. Cũng chính từ quá trình đó, tư tưởng Hồ Chí Minh về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam đã được hình thành ngày càng rõ nét. Đây cũng được coi là giai đoạn tìm tòi, khảo sát và thể nghiệm thành công bước đầu của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nói riêng, tạo tiền đề lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc hoàn thiện tư tưởng của Người sau này.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, trong điều kiện đã giành được chính quyền nhà nước, và phải đấu tranh kiên quyết giữ vững chính quyền, Hồ Chí Minh còn quan tâm nhiều hơn đến vấn đề cán bộ. Người đã có nhiều bài viết và tác phẩm về vấn đề này, như bài "Cán bộ tốt và cán bộ xoàng" trên báo Sự thật số 77 tháng 6/1947; tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" vào tháng 10/1947; bài viết "Dân vận" trên báo Sự thật số 120, ngày 15/10/1949; bài "Tự phê bình" trên báo Nhân dân ngày 20/5/1951… Các tác phẩm, bài viết đó thể hiện một cách sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ trên nhiều vấn đề, từ huấn luyện, đào tạo đến sử dụng cán bộ, từ đạo đức đến tác phong làm việc của cán bộ…
Đặc biệt, năm 1949, Người đề nghị thành lập trường đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Khi đến thăm trường lần đầu tiên, Người đã ghi lên trang đầu cuốn sổ vàng của Trường: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư" ([vi]). Những lời vàng đó toát lên tư tưởng rất rõ ràng, đặc sắc của Hồ Chí Minh về cán bộ, đặc biệt là vấn đề phẩm chất đạo đức người cán bộ.
Cùng với việc trực tiếp viết nhiều bài báo, tác phẩm về công tác cán bộ, Hồ Chí Minh còn tới dự, tới thăm và phát biểu tại nhiều lớp, nhiều khóa huấn luyện, đào tạo nhiều loại hình cán bộ và nhiều hội nghị về công tác cán bộ. Những lời phát biểu đó là sự thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ một cách sâu sắc trên các bình diện và khía cạnh khác nhau, phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của từng loại hình đào tạo huấn luyện cán bộ cụ thể.
Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn người cán bộ và sự vận dụng hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt vấn đề cán bộ ở vị trí hết sức quan trọng, có vai trò to lớn đặc biệt trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Do đó với Hồ Chí Minh, việc xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là vấn đề cấp bách của Đảng và Nhà nước. Đó chính là những tiêu chuẩn cơ bản mà người cán bộ cần phải có để vừa thể hiện và thực hiện được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp cách mạng.
Làm cách mạng với khát vọng giải phóng dân tộc, điều mà Hồ Chí Minh quan tâm trước hết ở người cán bộ cách mạng là vấn đề đạo đức. Người cho rằng, đạo đức chính là cái gốc quan trọng hàng đầu của người cách mạng "Người cách mạng phải có đức, không có đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"([vii]). Đây không chỉ là yêu cầu về phẩm chất, năng lực mà còn là vấn đề có tính nguyên tắc trong chỉ đạo nhận thức và hành động của mỗi người cán bộ. Đạo đức của người cán bộ cách mạng là nền tảng và là cơ sở để người cán bộ, đảng viên phát huy tài năng, trí tuệ và các phẩm chất khác, hướng năng lực của họ vào hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng.
Tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng được Hồ Chí Minh chỉ ra hết sức cụ thể, đó là nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; mỗi người cán bộ phải hội đủ các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh so sánh bốn đức cần, kiệm, liêm, chính của người cán bộ cách mạng như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của trời, như bốn phương đông, nam, tây, bắc của đất, mà thiếu một đức đó thì không thành người, cũng như thiếu một mùa không thành trời, thiếu một phương không thành đất. Người đòi hỏi người cán bộ phải giữ bốn đức đó để không trở nên hủ bại, không biến thành sâu mọt của nhân dân, mà phải là công bộc của nhân dân. Người cán bộ làm việc trong các cơ quan từ trung ương tới các địa phương không phải để "làm quan cách mạng" hay cầu mong lợi lộc, mà phải hiểu rằng mình đều là công bộc của dân, gánh vác công việc chung cho nhân dân, chứ không phải để đè đầu cưỡi cổ dân, phải là người lo trước thiên hạ và vui sau thiên hạ. Hồ Chí Minh còn chỉ ra rằng đạo đức cách mạng đòi hỏi người cán bộ phải trung thành với Đảng, trung thành với Tổ quốc, đồng thời đặt mình trong mối quan hệ với chính mình, với đồng đội, với công việc, với nhân dân, với đoàn thể một cách hài hòa.
Bên cạnh việc chỉ ra những tiêu chí đạo đức người cán bộ cách mạng, Hồ Chí Minh còn chỉ ra những căn bệnh mà cán bộ phải phòng tránh, sửa chữa. Đó là óc địa phương chủ nghĩa, bè phái, quân phiệt, hẹp hòi, chuộng hình thức, lối làm việc bàn giấy, vô kỷ luật, tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, lãng phí….
Chú trọng và đánh giá rất cao vai trò của đạo đức đối với người cán bộ, Hồ Chí Minh cũng đòi hỏi người cán bộ phải thường xuyên nâng cao trình độ, năng lực tổ chức thực hành để hoàn thành các nhiệm vụ được giao. Để có được một đội ngũ cán bộ tốt, ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng, thì cán bộ phải luôn luôn học tập về mọi mặt để nâng cao trình độ. Cán bộ phải là những người tiên tiến, nếu bị tụt hậu thì không thể xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Hồ Chí Minh đã dạy: "Làm nghề gì cũng phải học, vậy làm cách mạng cũng phải học. Nếu không giáo dục cho đảng viên làm cách mạng mà cứ yêu cầu họ làm cách mạng thì họ không làm tròn được nhiệm vụ" ([viii]).
Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ chỉ có đạo đức trong sáng cùng lòng nhiệt tình hăng hái sẵn sàng hy sinh thôi thì chưa đủ, mà còn phải có năng lực, trí tuệ, biết nhận thức và vận dụng đúng đắn những quy luật của tự nhiên và xã hội vào hoạt động thực tiễn của mình. Năng lực đầu tiên mà Hồ Chí Minh đòi hỏi ở người cán bộ cách mạng là năng lực lãnh đạo, quản lý, là khả năng tổ chức động viên quần chúng thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Vì cán bộ chính là cầu nối, là người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ đến với nhân dân, nên đòi hỏi cán bộ phải có năng lực này, nếu không thì không xứng đáng là cán bộ cách mạng. Và để tuyên truyền thực hiện tốt được đường lối của Đảng và Nhà nước trong quần chúng, đòi hỏi cán bộ phải có năng lực thực hành dân chủ, nghĩa là phải có mối liên hệ mật thiết với quần chúng, tin ở quần chúng và học hỏi ở chính quần chúng.
Theo Hồ Chí Minh, năng lực tổ chức thực hành của người cán bộ thể hiện ở những điểm là: quyết định vấn đề một cách cho đúng, tổ chức thi hành cho đúng và tổ chức kiểm soát cho đúng. Để quyết định vấn đề một cách cho đúng cần phải có năng lực, trí tuệ, nắm được thông tin và xử lý thông tin, đưa ra phương án để lựa chọn, quyết định. Người cho rằng, năng lực tổ chức thực hành còn thể hiện ở chỗ phải biết: "Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng" ([ix]).
Người cán bộ còn luôn phải học tập, rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ lý luận bởi lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn, kém lý luận thì gặp công việc không biết xem xét cho rõ, cân nhắc cho đúng, xử trí cho khéo, không thấy rõ điều kiện khách quan, chỉ làm theo suy nghĩ chủ quan, nên thường thất bại; vì thế. Nhưng cũng phải tránh tình trạng lý luận suông, lý luận không xuất phát, không áp dụng được vào thực tiễn. Để nâng cao lý luận, phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, mổ xẻ xem xét kỹ càng thực tiễn, để "làm phong phú thêm lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn"([x]). Theo Hồ Chí Minh, người cán bộ nâng cao lý luận không có nghĩa là thuộc lòng hay mô tả lý luận, mà phải khái quát, tìm ra quy luật của vấn đề, làm phong phú lý luận bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn. Đồng thời cũng đòi hỏi cán bộ tự giác xem học tập lý luận là một nhiệm vụ phải hoàn thành.
Trong tiêu chuẩn xem xét, đánh giá cán bộ, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đề cập đến phong cách, tác phong công tác. Theo Người, phong cách của người cán bộ được thể hiện ở các yêu cầu như tác phong quần chúng, dân chủ, thẳng thắn, tính quyết đoán và tinh thần trách nhiệm cao, sâu sát, thận trọng, nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa lý luận và thực tiễn, thường xuyên nghiêm túc phê bình và tự phê bình… Trong đó, phong cách dân chủ hay "cách làm việc dân chủ" là phong cách hàng đầu mà người cán bộ cần phải có. Người chỉ rõ: Nếu người cán bộ không có tác phong dân chủ hoặc "miệng thì nói dân chủ, nhưng làm việc thì họ theo lối "quan" chủ" ([xi]) là họ tự tước đi của mình vũ khí hữu hiệu nhất để hoàn thành nhiệm vụ. Khi đó, dù có "đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị" mà công việc vẫn không chạy ([xii]). Thứ hai, đó là phong cách khoa học, tức là làm việc phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Thứ ba, đó là phong cách nêu gương. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định nghề nào cũng vinh quang và việc gì cũng phải cố gắng chuyên tâm, không chủ quan, đại khái. Vì thế, tất cả mọi người, ở mọi địa vị, vị trí công tác, trong mọi hoàn cảnh đều phải nêu cao tinh thần trách nhiệm. Mỗi cán bộ đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải nêu gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, Người nhắc nhở cán bộ, đảng viên: "Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ "cộng sản" mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước"([xiii]).
Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức phong cách Hồ Chí Minh nói chung, tư tưởng Hồ Chí Minh về tiêu chuẩn người cán bộ nói riêng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng ở nước ta hiện nay. Mỗi cán bộ phải luôn luôn tự tu dưỡng, rèn luyện để trở thành người có phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống giản dị trong sáng, luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, luôn lấy lợi ích của nhân dân làm mục đích hoạt động của mình. Bên cạnh đó, phải đi sâu nghiên cứu khoa học, không ngừng học tập, phấn đấu quyết liệt để nâng cao trình độ chính trị, nghiệp vụ chuyên môn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
[i] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.310
[ii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.269
[iii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.240
[iv] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.139
[v] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, H.1995, tr.256
[vi] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr. 684
[vii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.252
[viii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.224
[ix] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.288
[x] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, H.2000, tr.497
[xi] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.176
[xii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr. 637
[xiii] Hồ Chí Minh Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị Quốc gia, H.1995, tr.552