Tương lai ngành ôtô sau khi vào WTO?

Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của Việt Nam được kỳ vọng sẽ mang lại những cơ hội lớn cho các ngành công nghiệp chế biến sử dụng nhiều lao động như dệt may, thủy sản... Thế nhưng, đối với ngành công nghiệp ôtô, tình hình không mấy sáng sủa.

Bảo hộ làm yếu toàn ngành

Công nghiệp ôtô là một trong những ngành được bảo hộ kỹ nhất ở Việt Nam, thể hiện qua biểu thuế quan và phi thuế quan đánh lên ôtô, cả mới lẫn cũ, nhập khẩu vào Việt Nam như hiện nay.

Điều này dẫn đến một nghịch lý là các doanh nghiệp sản xuất ôtô ở Việt Nam hoạt động cực kỳ kém hiệu quả (công suất thực tế hoạt động của dây chuyền thường không quá vài chục phần trăm so với công suất thiết kế vốn đã rất nhỏ, không hiệu quả theo tiêu chuẩn lắp ráp trong ngành này) nhưng vẫn sống khỏe nhờ giá bán cao ngất ngưởng trong khi chất lượng ôtô thấp xa so với tiêu chuẩn ở các nước tiên tiến.

Cần lưu ý rằng tuy những biện pháp bảo hộ chặt chẽ này đã được duy trì trong hơn một thập kỷ qua, nhưng cũng không giúp ích bao nhiêu trong việc tạo dựng một ngành công nghiệp ôtô đúng nghĩa ở Việt Nam.

Việc “chế tạo” ôtô ở Việt Nam chỉ dừng lại chủ yếu ở việc hàn, sơn, và sản xuất một số linh kiện, phụ tùng như lốp, ắc quy, ghế, đèn trần, tay nắm cửa... Động cơ ôtô vẫn phải nhập, hầu như dưới dạng nguyên chiếc (CBU-Complete Build Up). Phần lớn các chi tiết vỏ xe phải nhập khẩu dưới dạng CKD. Kính, đèn vẫn phải nhập khẩu phần lớn.

Thống kê cho thấy tỷ trọng nội địa hóa trong nhiều mẫu xe chỉ dừng lại ở con số 5-6%, và thường không vượt quá 20% trong toàn ngành.

Rõ ràng, chưa thể gọi cái đang có trong ngành ôtô là một ngành công nghiệp được.

Thay đổi từ WTO

Tuy vậy, tình hình sẽ phải khác đi sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Việt Nam sẽ phải bãi bỏ các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (Trade Related Investment Measures-TRIMS). Sẽ không còn chuyện các doanh nghiệp ôtô nước ngoài bị yêu cầu phải liên doanh với các doanh nghiệp nội địa nếu muốn sản xuất ôtô ở Việt Nam.

Từ tháng 10/2006, quy định về tỷ lệ nội địa hóa sẽ được bãi bỏ, và hàng rào thuế quan sắp tới cũng sẽ bị hạ thấp đáng kể để tạo tính cạnh tranh thực sự trên thị trường ôtô trong nước. Tất cả ôtô và linh kiện nhập khẩu sẽ được đối xử bình đẳng với những sản phẩm sản xuất trong nước.

Những cam kết khi gia nhập WTO trong ngành này sẽ dẫn đến những thay đổi lớn về phương thức sản xuất, lĩnh vực đầu tư và thị phần. Các doanh nghiệp nước ngoài sẽ thiết lập các dây chuyền chế tạo và lắp ráp chung cho nhiều chủng loại xe thay vì dây chuyền chuyên môn cho một mẫu xe nào đó.

Quan trọng hơn, sẽ có nhiều lĩnh vực mới trong ngành thu hút đầu tư như bán hàng, phân phối và dịch vụ hậu mãi, gồm cả tài trợ mua và bảo hiểm ôtô. Sẽ có thêm nhiều hãng sản xuất ôtô nước ngoài đổ bộ vào các phân khúc thị trường mới này ở Việt Nam (về nguyên tắc, được phép thiết lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong những lĩnh vực này).

Về đối tác, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngắm nhiều hơn đến các công ty nội địa cỡ trung và nhỏ như một đối tác tiềm năng bởi chúng ít quan liêu hơn, bộ máy quản lý ít cồng kềnh, và nợ nần ít hơn.

Dự báo tác động

Những thay đổi này có thể có những tác động lớn đến ngành công nghiệp ôtô Việt Nam.

Một số phân tích bi quan cho rằng sản xuất ôtô trong nước sẽ giảm tới vài chục phần trăm trong vòng mấy năm sau ngày gia nhập WTO, trong khi nhập khẩu tăng nhanh hơn thế. Tiêu thụ sút giảm sẽ buộc các nhà sản xuất phải hạ giá và tạo ra một cuộc chạy đua về giá.

Người ta cũng dự đoán rằng chỉ có một số rất ít liên doanh sản xuất ôtô sẽ trụ lại và phát triển được, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nội địa sẽ bị phá sản, hoặc phải chuyển sang sản xuất phụ tùng vì ngành công nghiệp ôtô vẫn cần mua (một phần) phụ tùng sản xuất trong nước vì lý do giá thành, thời gian giao nhận...

Theo TS. Phan Minh Ngọc

Thời báo KTSG

Nguồn QĐND: https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/phong-su/tuong-lai-nganh-oto-sau-khi-vao-wto-448778