Xứ hoa đào

Cao 1.500 mét so với mực nước biển, Đà Lạt nhìn xuống những triền dốc mờ sương nhưng không thấy điều gì xuất sắc liền ngẩng đầu lên cao dõi theo một cánh đại bàng bay từ Langbiang liệng một vòng cung rồi vút xa tít tránh khỏi thành phố.

Thành phố Đà Lạt dưới mắt nó, phủ một màu thông xanh rì trải ra tận hồ, các mái nhà phải cố lắm mới ngoi lên được mặt biển cây xanh rợn ngợp. Cho đến năm 1997, màu xanh vừa dịu dàng vừa quyền lực nọ vẫn còn tồn tại, năm đó, lần đầu Linh đến Đà Lạt.

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

Minh họa: HOÀNG ĐẶNG

Đối với nhiều người, đến Đà Lạt lần đầu vào năm 20 tuổi có vẻ đã là quá muộn, đặc biệt khi thành phố này chỉ cách Sài Gòn chừng sáu tiếng đi xe, nếu như vào cái năm 20 tuổi Linh chưa có người yêu, chắc hẳn phải vài năm nữa cô mới có chuyến đi Đà Lạt lần đầu. Linh nhớ khi môi hai người chạm nhau, vào cái năm 21 tuổi đó có thứ cảm giác ghê ghê cứ ở lại, có lẽ vì là nụ hôn đầu dù nó diễn ra ở Đà Lạt, dưới một giàn hoa vàng đượm thì môi cô vẫn cảm giác ghê ghê, có phải vì cảm giác đó mà hai người đã chia tay sau nụ hôn đầu một tháng, khi còn chưa trao nhau nụ hôn thứ hai.

Nhiều người bảo rằng Đà Lạt mang lời nguyền, đôi tình nhân nào đến đó, khi trở về sẽ chia tay. Người yêu thứ hai, rồi thứ ba đều đưa cô đến Đà Lạt, mọi chuyện cứ ứng nghiệm lời nguyền mà kết thúc, từ đó cô đến đây một mình, thường xuyên đến nỗi cô thông thuộc mọi con đường cứ như người bản xứ, giọng cô cũng bắt đầu thay đổi, cả cách nói nữa, đã bị tiêm nhiễm hơi lạnh cũng như phong thái của những con người đã quanh năm sống trong sự từ tốn thuần thục, giấu đi cái vội vàng của mình, cô quen nhiều người, nhiều đến mức chiếm quá nửa số lần cô đến Đà Lạt là để dự đám tang của họ. Thành phố u u của những người chết mới đến gặp những người chết cũ, từ cửa sổ của căn phòng khách sạn Linh hay trú lại mỗi lần đến Đà Lạt có thể thấy từng mảng sương trắng bay là đà sát đất, ẩn nấp sau những thân thông, bò dần xuống những con dốc dẫn về thành phố, men theo những con đường mà lúc sáng Linh đã đi qua, lúc đi qua đấy Linh đã có cảm giác gì rờn rợn, tựa hồ ai đang níu lấy tay mình, cô quay sang, nhìn xuống mà thầm thì: "Không sao! Không sao!", rồi bước tiếp. Khi ấy đường không có ai, Đà Lạt mùa vắng, bị ngăn trở bởi quãng đường cách quá xa Sài Gòn, đặc biệt là những đêm trăng trong thì càng vắng, như thể con người đã yên ổn sau bốn bức tường, an phận trong những nỗi sợ hãi mơ hồ, như Linh lúc nhìn đốm sương trắng trườn đi trên những quả đồi. Cô thích ngắm nhìn chúng, như thể cuộc sống của cô đang quện chặt với chúng, cũng đang chìm xuống. Lần này đến Đà Lạt cũng vậy, cô quyết định chọn căn phòng này, nó thân thuộc hơn cả căn nhà với chiếc giường cô chia sẻ cùng chồng ở Sài Gòn suốt 20 năm nay, lần này anh cũng đi cùng cô lên xứ hoa đào.

Chồng cô ấy à? Hơn 40 nhưng vẫn còn phong độ, năm tháng đẽo gọt khuôn mặt đó kỹ lưỡng hơn chứ không bỏ bê như khuôn mặt của cô. Càng ngày cô càng già hơn chồng, điều đó không làm cô tủi thân, trái lại cô có vẻ đắc ý, vì giờ đây, người ta không còn nhìn cô như một thiếu nữ nhỏ bé nép bên chồng để chờ sự che chở, trái lại, cô mới chính là người chở che cho họ, chồng và đứa con gái 18 tuổi. Mười tám tuổi mà nó đã đến Đà Lạt ba lần chứ không muộn màng như cô, nhưng đến sớm hơn không làm nó yêu Đà Lạt hơn cô. Đà Lạt mòn dần trong nó, thời tiết nóng hơn và con người lạnh dần đi, không gì tồn tại đủ lâu để níu chân nó. Con gái nhỏ lớn lên, còn cô chìm xuống, chìm xuống như cái cách Sài Gòn đang lún xuống. Cô thấy cô cũng đang chìm cùng thành phố, như thể ở lại thì cô không thể nào thoát ra được, cô cần phải chạy đi đến một nơi nào đó cao ráo hơn. Chính vì thế mà cô thích đi dạo dưới những hàng thông, trên những quả đồi say ngủ, lắm khi đang dạo bước như thế, cô tưởng tượng ai đó bên khung cửa sổ ở một khách sạn ngoài kia đang nhìn cô như nhìn đốm sương trắng từ từ dịch chuyển xuống chân đồi và biết đâu chừng trong những lần cô đứng bên cửa sổ, trong sương mờ kia là ai đó đang dạo bước.

Dù là kẻ dõi theo hay bị theo dõi, cô cũng chỉ một mình vì chỉ có Đà Lạt và cô, không thêm và không ngoại lệ, nó làm hình ảnh những cặp đôi đến Đà Lạt trong mắt cô như thể những kẻ sẽ chớm rơi vào bi kịch chia lìa. Chính vì thế, khi Phụng - chủ quán Cơn Mơ Chiều - nhắn tin cho cô, hỏi có muốn mua lại quán không, vì Phụng và chồng, đồng chủ quán sắp ly hôn nên quyết định bán lại quán, cô đã không bất ngờ chút nào. Cô cũng muốn mua lại quán, muốn ở lại đây, dĩ nhiên phải đổi tên quán, cô nghĩ vậy, cái tên này quá sến, người ta luôn muốn biến Đà Lạt thành một nơi sến sẩm hay cố biến Đà Lạt trở thành một chốn nào đó không Đà Lạt. Đó là lý do cô lên Đà Lạt lần này, để ở lại. Mãi mãi.

"Còn chồng chị thì sao?" - Phụng hỏi, cô đáp lại bằng cách tảng lờ, anh không có trong kế hoạch của cô, cả con gái của hai người cũng vậy, nó sẽ rời khỏi họ theo cái cách họ không giữ lại được, họ đã mất nó kể từ khi sinh ra nó, trong sự chắc chắn rằng nó sẽ lớn lên, vuột khỏi vòng tay họ. "Còn chồng chị thì sao?", đây mới là câu hỏi khó trả lời. Anh sẽ không theo cô, chắc chắn thế, công việc của anh, cuộc sống của anh, những hội bạn bè, tiệc nhậu và đám đông, anh thuộc về những nơi chốn ấy và cô sẽ không cố giành anh khỏi họ - những người lạ quen thuộc trong cuộc đời anh.

Cô sẽ bỏ chồng chỉ vì cô muốn ở lại đây: Đà Lạt. Không có tờ đơn ly dị nào được ký. Đơn giản là họ chỉ ly thân, cuộc hôn nhân này vẫn sẽ tiếp tục dẫu cô không ở gần anh trong suốt quãng đời còn lại nữa. Cô không tìm kiếm những nguyên cớ cho sự chia lìa này, ví dụ như anh hờ hững, anh ngoại tình hay gì gì chăng nữa, anh là một người chồng tốt, và tồi tệ cho cô, anh còn là người cha tốt. Nhưng cô cần phải ở đây. Nhấn mạnh thêm, dẫu có chuyện gì xảy ra đi nữa.

Đà Lạt đã không bảo vệ được cặp đôi thần tiên trong mắt cô, cô thích cuộc sống trước đây của họ, tự do tự tại, không có gánh nặng tiền bạc, cô tưởng họ hạnh phúc, nhưng đôi khi người ta cũng đau khổ vì quá hạnh phúc, vì khi hạnh phúc ở cạnh quá lâu thì hạnh phúc không thật, cái cảm giác nhàm chán của không khí bọc nhung trong những điều hạnh phúc quá mềm mại khiến ta lúc nào cũng trong trạng thái mơ ngủ. Họ còn trẻ, họ là bông vụ, đôi khi bông vụ xoay vòng ở một điểm, có lúc dịch chuyển, nhưng tuyệt đối không được dừng lại, bông vụ là phải xoay. Chỉ có cô là thích hợp ở một chỗ, cô đã hoàn tất và không gì níu được cô mạnh bằng chốn này. Cô đặt bút ký rất nhanh, rẹt, giờ đất này, quán này là của cô, cô ký nhanh đến nỗi Phụng thôi hỏi "còn chồng chị thì sao?" nữa mà lẳng lặng rút tờ hợp đồng lại rồi lui vào phòng. Giờ chỗ này không còn là chỗ của Phụng.

Còn lại mình cô giữa căn phòng rộng lớn, sương lùa qua khe cửa gí sát sàn, chầm chậm bò tới ngoạm lấy hai bàn chân. Cô co rút lại, gác hai chân lên trên ghế, vòng tay ôm chân, đầu tựa vào gối, cô vẫn chưa quen lắm với cái lạnh này, nhưng rồi sẽ rất nhanh thôi, cô có thể đi chân trần trong cả những đêm sương giá nhất. Cô tưởng tượng khuôn mặt chồng và con khi nói rằng cô sẽ không về cùng họ vào sáng mai. Chắc chắn họ sẽ ngạc nhiên, sau ngạc nhiên là gì thì cô không rõ, vài lời can gián chiếu lệ, thậm chí cãi vã nhưng rồi họ sẽ không nán lại Đà Lạt để thuyết phục cô về, niềm vui không vượt quá ngày chủ nhật, thứ hai họ phải trở về cái thế giới của họ, ở dưới kia, Sài Gòn, dù có cô hay chăng nữa. Không ai cưỡng lại được guồng quay đó kể từ lúc họ dấn thân vào.

Cô chỉ đem ít đồ đạc, cô định bỏ lại tất cả, sẽ sắm sửa mọi thứ mới, trong một cuộc đời mới, cái đoạn đời trước của cô đã không tạo ra được một chút kỷ niệm nào. Gia đình cô cũng thế, trừ việc cô sinh con gái đầu lòng, cái khoảnh khắc cô ôm nó trong tay, cô biết rằng cô đang ôm một hoài niệm, bởi nó sẽ lớn phổng phao, sẽ trượt khỏi tay cô, con cái chưa bao giờ là tương lai cả. Cô không cầu sự thông cảm của chồng con. Họ sẽ không bao giờ hiểu cô, họ sẽ giải thích với bạn bè với người xung quanh rằng cô có một dự án ở Đà Lạt, họ sẽ tránh nói cô điên dù họ nghĩ là cô điên thật. Có lẽ chồng cô sẽ có một người tình để lấp chỗ, cô không phản đối chuyện đó, con gái cô đã có người yêu, nó sẽ có chồng và những đứa con, nó sẽ bận bịu với cuộc đời của nó. Dần dần họ sẽ quên lãng cô, trong những câu chuyện, trong suy nghĩ, trong những giấc mơ, căn nhà sẽ thay đổi, những món vật dời chỗ, cũ kỹ và bị vứt đi, sẽ không còn gì gợi nhớ đến cô nữa. Sài Gòn nơi cô dành hơn 20 năm cuộc đời là thế, nó lẳng lặng chứng kiến những cuộc biến mất, những con người trong một sớm mai khi mặt trời lên trên sông Sài Gòn sẽ không còn ai thấy họ nữa, những con người bốc hơi, tan biến, như cô, như chúng ta.

Cô mỉm cười vì cái cảm giác sung sướng khi cả thế gian quên lãng mình.

Huỳnh Trọng Khang

Nguồn NLĐ: http://nld.com.vn/van-nghe/xu-hoa-dao-20190727180312672.htm