Xuất khẩu nông sản chinh phục thị trường khó tính
Không chỉ tăng hơn 50% so với cùng kỳ, xuất khẩu nông sản 2 tháng đầu năm 2024 đã khẳng định vị thế khi chinh phục những thị trường khó tính như Hoa Kỳ, châu Âu.
Trái ngọt
Báo cáo của Bộ NN&PTNT cho biết, 2 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu (XK) nông - lâm - thủy sản (NLTS) ước đạt 9,84 tỷ USD, tăng 50,3% so với cùng kỳ năm trước (CKNT); xuất siêu 2,68 tỷ USD tăng gần 2,9 lần so với CKNT. Đóng góp vào kết quả này có: Nông sản 5,18 tỷ USD, tăng 55,7%; Lâm sản 2,9 tỷ USD, tăng 59,7%; Thủy sản 1,37 triệu USD, tăng 28,9%; Chăn nuôi 78 triệu USD, tăng 15,1%; Đầu vào sản xuất 309 triệu USD, tăng 13,6%.
Hầu hết các mặt hàng chủ lực đều đạt giá trị XK cao hơn CKNT, như: Sản phẩm gỗ 1,68 tỷ USD (tăng 59%); Cà phê 1,38 tỷ USD (tăng 85%); Rau, quả 970 triệu USD (tăng 72,8%); Gạo 708 triệu USD (tăng 49,8%); Hạt điều 595 triệu USD (tăng 68,2%); Tôm 403 triệu USD (tăng 20,5%). Riêng cá tra 224 triệu USD (giảm 0,7%).
Chia sẻ thêm về XK rau quả, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Phùng Đức Tiến cho biết, 2 tháng đầu năm, kim ngạch XK mặt hàng này đạt xấp xỉ 1 tỷ USD. Đây là tiền đề để ngành rau, quả hoàn thành được mục tiêu trên 5 tỷ USD trong năm nay.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT đánh giá, kết quả trên không chỉ là sự cố gắng của ngành Nông nghiệp trong 2 tháng đầu năm mà còn là cả quá trình tái cơ cấu toàn ngành, chuyển dần sản xuất gắn với thị trường. “Đây là tín hiệu rất vui để chúng ta có tiền đề chuẩn bị cho việc về đích kim ngạch XK 54 - 55 tỷ USD trong năm 2024” - Thứ trưởng nói.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, giá trị XK NLTS tới các thị trường đều tăng. Trong đó, XK sang khu vực châu Á 4,55 tỷ USD (tăng 43%); châu Mỹ 2,31 tỷ USD (tăng 74,2%); châu Âu 1,28 tỷ USD (tăng 52,6%); châu Đại Dương 135 triệu USD (tăng 48,8%) và châu Phi 129 triệu USD (tăng 60,4%).
Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản tiếp tục là 3 thị trường XK lớn nhất; song tín hiệu vui là thị trường Hoa Kỳ có sự tăng trưởng lớn. Giá trị XK sang Hoa Kỳ chiếm tỷ trọng 21,5%, tăng 77,3%; tiếp đến là Trung Quốc chiếm 21%, tăng 47,9% và Nhật Bản chiếm 7,2%, tăng 29,2%.
“Có thể thấy, những năm trước đây, Trung Quốc chiếm tỉ trọng xuất khẩu rất cao nhưng giờ lại đứng sau thị trường Mỹ. Qua đó để thấy, chất lượng nông sản Việt Nam đã được nâng cao bởi Mỹ và châu Âu là những thị trường đòi hỏi các tiêu chuẩn, quy chuẩn rất khắt khe” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định.
Mặc dù vậy, lãnh đạo Bộ NN&PTNT không quên nhấn mạnh tầm quan trọng của thị trường Trung Quốc với nhiều điều kiện thuận lợi cho việc XK nông sản Việt Nam như như dân số đông, vị trí địa lý thuận lợi,... “Nếu được khơi thông liên tục với các giải pháp như cửa khẩu thông minh về đường sắt, đường bộ thì tiềm năng, lợi thế của nông sản Việt Nam XK sang Trung Quốc sẽ còn vượt cao hơn” - Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nói, đồng thời cho biết, thời gian tới, ngành Nông nghiệp đang chuẩn bị cho việc ký kết Nghị định thư với Trung Quốc về XK dừa, sầu riêng đông lạnh, thủy sản… Đây đều là những ngành hàng tiềm năng rất lớn.
Chia sẻ về tiềm năng XK nông sản Việt Nam, lãnh đạo Bộ NN&PTNT cho biết, hiện có hơn 200 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có nông sản Việt Nam. Tuy nhiên, thương hiệu, quy mô và tỉ suất hàng hóa chưa đáp ứng được những tiềm năng, lợi thế hiện có, chưa khai thông được thị trường. “Đã có kết quả tích cực nhưng để "giải phóng" tiềm năng nông sản, vẫn cần phải dành nhiều nỗ lực, cố gắng hơn nữa” - Thứ trưởng khẳng định.
Nhấn mạnh nông sản Việt Nam đã vào được một số thị trường khó tính, lãnh đạo Bộ NN&PTNT lưu ý, các khu vực, quốc gia trên thế giới đều có bảo hộ sản xuất trong nước. “Điều đó cho thấy, việc cập nhật yêu cầu của từng thị trường rất quan trọng. Những cập nhật đó là tiền đề để ngành Nông nghiệp tái cơ cấu sản xuất theo hướng chuyển đổi số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn…, đáp ứng được tín hiệu của các thị trường”, ông Tiến lưu ý.
Xuất khẩu gạo sẽ hoàn thành mục tiêu trên 4,7 tỷ USD
Ngày 2/3, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Chị thị 10/CT-TTg về việc đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, XK lúa, gạo bền vững, minh bạch, hiệu quả trong tình hình mới. Theo Chỉ thị, năm 2023, cả nước đã XK trên 8,1 triệu tấn gạo, trị giá gần 4,7 tỷ USD, tăng 14,4% về lượng và 35,3% về giá trị so với cùng kỳ năm 2022 và là mức cao nhất trong 16 năm qua.
Theo báo cáo của Bộ NN&PTNT, 2 tháng đầu năm, XK gạo đạt 708 triệu USD, tăng 49,8%. Thứ trưởng Phùng Đức Tiến khẳng định, XK gạo sẽ hoàn thành mục tiêu trên 4,7 tỷ USD trong năm 2024. Để đảm bảo nguồn cung gạo cho các kế hoạch XK, Thứ trưởng cho biết, năm 2024, tiếp tục duy trì diện tích canh tác lúa ở mức 7,1 triệu ha với sản lượng 43 triệu tấn, đảm bảo tiêu dùng trong nước và XK.