30 năm- Hành trình vì khát vọng độc lập tự do
Ngày 5/6/2021 hôm nay là tròn 110 năm Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước. Ngày 05/6/1911 cách đây 110 năm, đã trở thành một dấu mốc đặc biệt quan trọng, không chỉ trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác, mà còn đối với cả dân tộc Việt Nam.
Từ hành trình bôn ba 30 năm tìm đường cứu nước, qua 3 châu lục, 4 đại dương, qua gần 30 quốc gia, thành phố, Bác Hồ, lúc đó là người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, đã làm được như điều Người nung nấu: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.
Ra đi từ hoài bão lớn
Việt Nam, những năm đầu thế kỷ 20, vượt qua biên giới sang một quốc gia khác thực sự là một giấc mơ không dễ trở thành hiện thực. Nhất là đấy còn là giấc mơ cao hơn, xa xôi hơn: ra đi tới nhiều nước, để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Thêm vào đó, trong tay người thanh niên trẻ tuổi chẳng hề dư dả về tiền bạc như Nguyễn Tất Thành ngày ấy, thực là khó trăm bề. Nói vậy, để thấy, hoài bão trong người thanh niên Nguyễn Tất Thành ngày ấy, lớn đến nhường nào.
Phải đọc về những chia sẻ của Người về hành trình ra đi ngày ấy, có lẽ lớp trẻ thế kỷ 21 mới có thể mường tượng phần nào về hoài bão ấy. Như lần Hồ Chủ tịch trả lời một nhà báo Nga: “Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe ba chữ Pháp “Tự do, bình đẳng, bác ái”. Đối với chúng tôi, người da trắng nào cũng là người Pháp. Người Pháp đã nói thế. Và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy. Nhưng trong trường học cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng giấu không cho người nước tôi xem sách báo. Không phải chỉ sách của các nhà văn mới, mà cả Rousseou và Montesquier cũng bị cấm. Vậy thì phải làm thế nào bây giờ? Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”. Nhiều năm sau này, năm 1965, khi trả lời phỏng vấn của nhà văn Mỹ Anna Lui Strong, Người một lần nữa lý giải về nguyên cớ của chuyến đi xa ngày ấy: “Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”.
Những ngày làm trợ giáo, dạy học tại Trường Dục Thanh, Phan Thiết, có cơ hội đọc những cuốn sách quý, tiếp cận những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp càng khiến người thanh niên- thầy giáo trẻ nhận ra rằng, mong ước ra nước ngoài tìm kiếm con đường cứu nước cho dân tộc, thực sự là mong ước có cơ sở.
Rồi những ngày đặt chân lên đất Sài Gòn, trong lúc “lang thang để tìm cách sang phương Tây”- như Người sau này tâm sự- có điều kiện để rồi nhận ra một sự thực chua chát: Sài Gòn- Viễn Đông tráng lệ của thực dân Pháp- nhưng với người dân Việt Nam nô lệ, đây vẫn là thành phố của bất công và nghèo đói, để rồi đau đáu suy ngẫm: “nhưng điều lạ hơn cả là trong bối cảnh như vậy sao dân mình vẫn khổ sở và bị khinh rẻ”.
“Phải làm gì để cứu dân, cứu nước?” càng là câu hỏi thôi thúc, hiện diện thường trực trong tâm trí Người. Rồi câu nói đượm buồn của người cha Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy): “Tìm thăm cha là tốt, nhưng cái cần hơn vẫn là tìm đường cứu dân tộc”... càng khiến chàng thanh niên yêu nước ngày đó vẫn quyết tìm mọi cách để biến hoài bão thành hiện thực.
Nói là làm, quyết chí đến cùng. Vượt qua khó khăn, trở ngại trăm bề, ngày 05/6/1911, trên tàu đô đốc Latouche Treville rời cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi Marseille (Pháp), có mặt người phụ bếp trẻ tên Văn Ba. Người phụ bếp ấy chính là chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành và ngày 5/6 ấy chính là ngày người thanh niên ấy bắt đầu hành trình đi tìm đường cứu nước, giải phóng cho dân tộc Việt Nam.
3 thập kỷ bôn ba cho ngày trở về lịch sử
Thực sự, ngoài chính “người trong cuộc” Nguyễn Tất Thành- Nguyễn Ái Quốc, sẽ khó ai có thể thấu hết được những khó khăn, gian khó trên hành trình đằng đẵng 30 năm trời, bôn ba khắp các châu lục, đại dương, qua 30 quốc gia, thành phố ngày đó. Qua những lời kể hiếm hoi của Người, những nghiên cứu, tìm hiểu của nhiều nhà nghiên cứu, có lẽ chỉ giúp lớp hậu sinh sau này hiểu được phần nào hành trình xa ngái ấy.
Theo nhiều tài liệu, một tháng sau ngày rời Bến cảng Nhà rồng, Nguyễn Tất Thành đặt chân lên đất Pháp. Lần đầu tiên trên mảnh đất vẫn được coi là nơi của phồn hoa, ánh sáng, nhưng một con người chịu khó quan sát như Nguyễn Tất Thành đã kịp nhận ra rằng ở nước Pháp cũng có những người nghèo như ở xứ sở của mình. Thực tế đó đã khiến Người không thôi tự hỏi: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của nước họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”.
Hành trình những năm sau đó, từ nước Pháp đến châu Phi, có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha rồi tới Trung Mỹ, Nam Mỹ rồi nước Mỹ… lạ lùng là thực tế ấy vẫn diễn ra, như ở nước Pháp.
Đến đâu, Người cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô nhân đạo của bọn thống trị. Tại nước Mỹ, Người có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ, vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người lao động Mỹ. Người đến thăm quận Brooklyn của thành phố New York, đến khu Harlem để tìm hiểu đời sống và cuộc đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người da đen, Josephine Stenson, một nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ- đã kì công tìm lại quyển bút tích ghi lại cảm nhận của các vị khách khi họ đến tham quan và chiêm ngưỡng bức tượng Nữ thần Tự Do, đã bắt gặp những dòng chữ đầy day dứt của Nguyễn Ái Quốc: “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới chân tượng thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp; số phận người phụ nữ bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam giới?”.
Đầu năm 1913, Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc theo tàu rời Mỹ trở về Pháp, sau đó sang Anh. Theo nhiều nhà sử học, 4 năm ở London, với những tháng ngày lăn lộn trong những công việc lao động khổ nhọc như cào tuyết đến mức suy sụp sức khỏe, những ngày có cơ hội được đọc các tác phẩm của Marx và Engels, đã góp phần rất nhiều trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh sau này.
Khách sạn Carlton ở Thủ đô London, vương quốc Anh nơi Nguyễn Tất Thành vừa làm thuê vừa tự học tiếng Anh trong những năm 1914-1917.
Cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành đã từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp. Từ thời khắc ấy, hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành bắt đầu có những khởi đầu mới, những bước ngoặt mới. Trong đó, bước ngoặt lớn đầu tiên là việc đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp - “tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự do, bình đẳng, bác ái”.
Cùng nhờ việc gia nhập Đảng Xã hội Pháp, Nguyễn Tất Thành đã có cơ hội cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Versailles. Dưới bản Yêu sách Nguyễn Tất Thành ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Bước ngoặt lớn thứ hai không gì khác là sự kiện Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920, bản Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin được thông qua. Và Nguyễn Tất Thành giờ là nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc đã có cơ hội tiếp cận văn kiện quý giá ấy. “Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”- sau này, Người kể lại.
Từ giây phút ấy, từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Những năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ với việc Người lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ và gửi đi học ở Liên Xô ... Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời…
Khi dự liệu tất cả mọi sự chuẩn bị đã chín muồi, ngày 28/1/1941, sau 30 năm bôn ba nước ngoài, rời xa Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về nước trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Ra đi để trở về, sau 3 thập kỷ bôn ba, Người đã có ngày trở về lịch sử, dân tộc Việt Nam cũng có cho mình cơ hội lịch sử để đánh đổ đế quốc, thực dân, giành độc lập dân tộc cho chính mình.
Nguồn Công Luận: https://congluan.vn/30-nam-hanh-trinh-vi-khat-vong-doc-lap-tu-do-post137337.html