An Giang: Chùa Vạn Linh tưởng niệm 70 năm Hòa thượng Thích Thiện Quang viên tịch
Sáng 7-1 (26-11-Quý Mão) tại chùa Vạn Linh (Núi Cấm, An Giang), môn đồ pháp quyến đã trang nghiêm tổ chức Lễ tưởng niệm 70 năm Hòa thượng Thích Thiện Quang viên tịch.
Hiện diện tham dự có Trưởng lão Hòa thượng Thích Huệ Tài, Ủy viên Thường trực Hội đồng Chứng minh; Trưởng lão Hòa thượng Thích Bửu Thành, Trưởng lão Hòa thượng Thích Nhật Quang đồng Thành viên Hội đồng Chứng minh; Hòa thượng Thích Thiện Thống, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trưởng ban Trị sự GHPGVN tỉnh An Giang;
Chư tôn giáo phẩm Ban Trị sự GHPGVN tỉnh An Giang, TX.Tịnh Biên, Đồng Tháp, TP.Thủ Đức, H.Hóc Môn (TP.HCM); chư Tăng Ni trụ trì các tự viện trong và ngoài tỉnh; cùng môn hạ đệ tử và đông đảo Phật tử gần xa.
Tại tổ đường, Hòa thượng Thích Tôn Quảng, Phó ban Trị sự GHPGVN tỉnh An Giang, Trưởng ban Trị sự GHPGVN TX.Tịnh Biên cung tuyên tiểu sử cố Hòa thượng Thích Thiện Quang.
Trong không khí trang nghiêm, chư tôn giáo phẩm cùng đại chúng đã thành kính thắp hương tưởng niệm, nhất tâm đảnh lễ bậc cao Tăng thạc đức, tri ân công đức cao dày của cố Hòa thượng đối với đạo pháp và môn phong.
Hòa thượng Thích Thiện Quang, pháp húy Hồng Xứng, sinh năm 1895 tại Mỏ Cày, Bến Tre. Ngài là đệ tử của tổ Như Hiển - Chí Thiền, tiếp nối dòng Lâm Tế Gia Phổ đời thứ 40, là bổn sư của Đại lão Hòa thượng Thích Trí Tịnh (1917-2014), Đệ nhị Chủ tịch Hội đồng Trị sự GHPGVN.
Năm 30 tuổi, ngài tìm về chùa Phi Lai (núi Két), trú xứ của tổ Chí Thiền - Như Hiển (1861-1933), một bậc chân tu đắc đạo, giới đức tinh nghiêm xin xuất gia, được tổ thâu nhận làm đệ tử và ban cho pháp danh là Thiện Quang.
Ngài siêng năng tinh tấn, chuyên tâm học tập kinh luật. Vốn tính lặng lẽ thâm trầm, thích ở nơi vắng lặng để dễ bề tu tập, năm 1927, sau mùa an cư, ngài được tổ cho phép lên núi Cấm cất am chuyên tu.
Sinh thời, ngài chuyên trì chú Đại bi và niệm danh hiệu Bồ-tát Quán Thế Âm thuần thục đến độ khi ngủ vẫn niệm.
Hòa thượng có tài trị bệnh, tiếng lành đồn xa, nên nhiều người tìm đến xin điều trị, học thuốc, học đạo. Cảm ân đức của ngài, có người xin công quả, kẻ xin xuất gia ngày càng đông.
Năm 1941, ngài hưng công xây dựng chùa với quy mô lớn. Từ đó, khai mở đạo tràng, tiếp Tăng độ chúng, xiển dương đạo pháp có sức ảnh hưởng rộng lớn tại miền Tây Nam bộ.
Năm 1946, trong tình hình chiến tranh, ngài cùng đồ chúng xuống núi tạm lánh ở nhà Phật tử tại Tri Tôn. Sau đó, theo lời mời của Phật tử, Hòa thượng về chùa Linh Bửu (Bình Thạnh, Sài Gòn) tá túc.
Sáng 26-11, ngài ngồi trên giường cùng đại chúng niệm Phật, sau khi niệm to đứt quãng danh hiệu Nam-mô A Di Đà Phật, ngài từ từ nằm ngay thẳng xuống giường, an nhiên thị tịch vào lúc 8 giờ 15 phút ngày 26-11-Quý Tỵ (31-12-1953), trụ thế 59 năm.
Trong 2 ngày 6, 7-1-2024 (25, 26-11-Quý Mão), bốn chúng đệ tử trong tông môn đã trang nghiêm tổ chức các khóa lễ tụng kinh, niệm Phật, thắp nến tưởng niệm và hữu nhiễu bảo tháp bày tỏ niềm tôn kính tri ân đối với bậc thầy khai sơn tạo tự.