Bí ẩn quả chuông đồng hơn 1.000 năm tuổi ở Hà Nội
Chuông đồng Nhật Tảo được tạo tác năm 948 cách đây vừa đúng 1072 năm. Trong suốt thời gian tồn tại cho tới năm 1987 quả chuông vô giá này mới được nhà Hán Nôm học Phạm Văn Thắm tình cờ phát hiện ra khi đang được treo tại Văn Chỉ của thôn Nhật Tảo (nay là phường Đông Ngạc, Bắc Từ Liêm, Hà Nội). Ngay sau khi bài minh trên chuông được dịch, sự quý giá của quả chuông mới được biết đến. Tháng 1-2020, chuông Nhật Tảo đương công nhật Bảo vật Quốc gia.
Báu vật bị lãng quên
Để tận mục sở thị quả chuông đồng quý giá hơn 1.000 năm tuổi, chính xác thì chúng tôi phải mất tới hơn 1 tháng trời liên hệ với cơ quan chức năng, chính quyền địa phương. Việc cẩn thận của chính quyền địa phương đối với bảo vật vô giá này, chúng tôi biết là đương nhiên phải làm và thực sự cần thiết để bảo đảm an toàn tuyểt đối cho bảo vật.
Hôm chúng tôi đến thăm đình Nhật Tảo, đình đang được tu bổ lại phần hậu cung, gian tiền tế phía ngoài thấy bảo cũng mới được tu bổ trước đó quãng chục năm, các mảng chạm tinh xảo, có một không hai đều được giữ lại cẩn thận. Tiếp chúng tôi là đầy đủ các thành viên của Tiểu ban quản lý di tích và một cán bộ Công an phường Đông Ngạc.
4 cụ cao tuổi trong làng đều mặc đồ tế lễ, nghiêm cẩn và trịnh trọng bê quả chuông ra đặt trên một cái bàn lớn, giữa sân đình. So với những quả chuông quý từng có, chuông Nhật Tảo có vẻ bé hơn về kích cỡ. Chuông cao 0,32m, nặng 5,4kg với đường kính miệng 0,19m. Quai chuông uốn cong, được tạo tác thành 2 đầu thú có sừng. Mặt chuông khắc một bài minh, gồm 210 chữ Hán. Một ít chữ bị mờ hoặc là được viết theo dạng ký tự đặc biệt, tuy nhiên nhìn vào tổng thể bài minh, nhà nghiên cứu cũng có thể đoán định được.
Theo ông Đặng Văn Đường, Thủ từ đình Nhật Tảo: Trước đây, quả chuông vẫn được treo ở đình Nhật Tảo song không ai biết giá trị lịch sử to lớn của nó. Năm 1952, thực dân Pháp càn qua, dân làng đành phải chuyển hết đồ thờ tự từ đình về Văn Chỉ, khi đó chuông bị di dời và được treo phía ngoài Văn Chỉ mấy chục năm ròng. Suốt mấy chục năm chiến tranh, Văn Chỉ cũng như đình Nhật Tảo bị tàn phá nặng nề, tiền đường, trung đường và hậu cung đều không còn, không mấy ai biết đến giá trị của chuông.
Năm 1987, nhà Hán Nôm học Phạm Văn Thắm về nghiên cứu tại địa phương, tình cờ đọc và dịch được những dòng chữ khắc trên chuông. Lúc đó, nhiều người mới biết, đó là chuông quý. Tuy nhiên, phải đến năm 1994, chuông mới được rước trở lại về đình và bảo quản cho đến ngày hôm nay.
Các cụ cao niên trong làng còn kể lại rằng, ngày xưa, các lớp học còn được tổ chức ngay trong đình làng, quả chuông treo góc đình thực hiện nhiệm vụ thay trống báo giờ vào lớp, giờ tan học. Quả chuông không to, chính vì thế đám học trò nghịch ngợm không ít lần tháo xuống gõ chơi. Gõ chán thì lại treo lên.
Cũng có thời gian dài, để bảo vệ chuông quý, người làng phải nghĩ ra rất nhiều kiểu cất dấu, chôn xuống đất, rồi treo lên cao…"Nhưng bây giờ thì đã tìm ra một phương án hoàn hảo để bảo vệ"- cụ từ đình vui vẻ kể, tất nhiên, phương án đó là gì thì phải bí mật.
Bí mật về cách thức và nơi lưu giữ quả chuông quý cũng phải, bởi lẽ, hơn chục năm trước, đã từng có kẻ gian lẻn vào đình, phá khóa cửa chính rồi men xuống nhà dưới tìm quả chuông để trộm. Như là "trời xui đất khiến" may mắn thế nào, đang lúc lần mò tìm kiếm thì tên trộm đụng mạnh vào quả chuông (đây chỉ là phiên bản được đúc ra với kích cỡ giống hệt treo trong đình), gây nên tiếng động. Bảo vệ đình phát hiện ra, chạy vào thì tên trộm vụt chạy, leo lên ô tô nổ máy đi mất. Từ thời điểm đó, việc cắt cử bảo vệ đình được thực hiện nghiêm ngặt hơn, cẩn thận hơn.
Đỉnh cao của nghệ thuật tạo tác hơn 1.000 năm trước
Theo hồ sơ Bảo vật quốc gia nhận định, chuông Nhật Tảo là cổ vật độc bản, đây là quả chuông duy nhất tồn tại nguyên vẹn từ thế kỷ X cho đến nay, được phát hiện ở Việt Nam. Không chỉ có niên đại sớm và cổ xưa nhất còn lại, chuông Nhật Tảo có hình dáng độc đáo, khác biệt so với hệ thống chuông chùa ở Việt Nam. Họa tiết trang trí trên thân chuông được xem là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc và nghệ thuật đúc đồng từ hơn 1.000 năm trước.
Chuông được đúc theo lối thượng thu hạ thách (trên thon, dưới nở). Quai chuông đúc nổi đôi thú (giống như Ly Thủ) đấu lưng vào nhau, uốn cong tạo thành núm treo chuông. Thú có đầu to, mắt lồi, hai sừng thẳng, bờm ôm sát đầu, thân có vảy, hai chân và miệng ngậm tỳ xuống đỉnh chuông tạo thế vững chắc cho quai chuông. Chỏm quai tạo hình núm tròn dẹt nhô lên nhưng không phải là hồ lô như trên các quai chuông sau này. Đỉnh chuông bằng, vai xuôi, thân hình trụ, miệng loe có gờ, thành chuông dày. Thân chuông được phân cách bởi 5 đường đúc nổi ngang dọc, tạo thành 8 ô, phần trên là 4 ô hình thang đứng, phần dưới là 4 ô hình chữ nhật. Nằm giữa 5 đường đúc nổi nêu trên là 4 núm gõ (để đánh chuông), núm tròn, tạo hình bông hoa nở, xung quanh có 12 cánh hoa. Phần trên của mặt ngoài chuông khắc chìm chữ Hán, theo lối chữ chân, còn khá rõ, phủ kín cả 4 ô hình thang và khoảng trống giữa những đường đúc dọc (gồm 27 cột, 211 chữ). Trải qua thời gian dài hơn 1000 năm, một số phần nhỏ chuông bị hư hỏng như phần chỏm quai vỡ thiếu mảnh, linh thú gẫy 1 chân, sừng, một số cánh hoa của 2 núm gõ bị mòn vẹt do quá trình sử dụng. Song về tổng thể chuông được đánh giá là còn khá nguyên vẹn.
Sử liệu sớm nhất về thời kỳ tự chủ
Không chỉ độc đáo về nghệ thuật tạo tác và đúc đồng, chuông Nhật Tảo còn là nguồn sử liệu tin cậy và sớm nhất của thời kỳ tự chủ, thế kỷ X. Bài minh được khắc trên thân chuông cung cấp thông tin cực kỳ quý giá về một thời kỳ mà sử liệu thành văn của Việt Nam ít được lưu giữ được cho đến bây giờ.
Theo bản dịch của cố giáo sư Hà Văn Tấn, bài minh được viết năm Càn Hòa thứ 6 (năm 948). Càn Hòa là niên hiệu của Lưu Thạnh, vua nước Nam Hán, một nước thời Ngũ đại thập quốc, đóng đô ở Quảng Châu. Tuy nhiên, đây là chuông Việt Nam, không phải chuông Trung Quốc, vì tên địa danh ghi ở bài minh đã xác nhận điều đó. Trong bài minh có nhắc đến năm Giáp Thìn, tức năm 944, là năm Ngô Quyền mất. Sau đó Dương Tam Kha đã cướp ngôi vua, xưng là Bình Vương. Năm 948 là năm Dương Tam Kha đã ở ngôi vua được 4 năm. Theo sử sách ghi lại tuy Ngô Quyền đã giành lại nền độc lập, xưng vương, nhưng vẫn chưa có niên hiệu. Cho nên, để ghi năm tháng cho các văn bản trong nước ta thời đó, người ta phải dùng niên hiệu của Nam Hán, dù rằng, đạo quân xâm lược của nước này đã bị Ngô Quyền đánh bại ở sông Bạch Đằng năm 938.
Bài minh chi tiết, cụ thể còn lưu lại trên chuông là nguồn sử liệu chân thực, vô cùng quan trọng và quý giá, giúp chúng ta tìm hiểu nhiều vấn đề lịch sử làng xã, tôn giáo, đặc biệt là Đạo giáo trong đời sống tâm linh của người Việt ở thế kỷ X. Đây là tài liệu hiện vật đầu tiên và duy nhất được biết cho tới nay thể hiện mối quan hệ song hành giữa Đạo giáo và Phật giáo, làm cơ sở cho sự hình thành tư tưởng Đạo- Phật- Nho cùng đồng hành trong đời sống tâm linh của người Việt vào thời Lý- Trần. Minh văn trên quả chuông cũng cung cấp thông tin về tổ chức hành chính xã- thôn- huyện xuất hiện ở nước ta khá sớm (xã ở đây vừa là một tổ chức tôn giáo, đồng thời là một đơn vị hành chính), cùng với đó là những chức danh Đạo giáo ở nước ta vào thế kỷ thứ X.
Việc chuông Nhật Tảo trở thành Bảo vật quốc gia là tin vui đối với những người dân làng Nhật Tảo, song đồng hành cùng vinh dự là trách nhiệm trong việc bảo vệ cũng như phát huy giá trị của quả chuông có một không hai này.
Đình Nhật Tảo thờ Thái tể Thượng tướng Trần Nguyên Trác, ông là con thứ 2 của vua Trần Minh . Ông là người có công lao to lớn đối với dân làng trong quá trình khai hoang, lập ấp. Với lịch sử hơn 600 năm tuổi, đình Nhật Tảo lưu giữ được nhiều nét văn hóa độc đáo chứng minh sự giao thoa của nền văn hóa Đại Việt với nhiều nền văn hóa khác, đặc biệt văn hóa Chăm cổ.
Các dấu ấn của văn hóa Chăm còn lưu lại khá nhiều trong các phù điêu, họa tiết. Cùng với tượng phỗng gỗ được đặt 2 bên trước lối vào hậu cung của đình còn có 2 bức phù điêu mang hình hài Kinara (cô tiên) được tạo tác và gắn trên nóc gian tiền tế. 2 bức phù điêu cô tiên được khắc với những nét cách điệu, có dáng dấp giống với các tiên nữ thường xuất hiện trong nghệ thuật điêu khắc Việt truyền thống nhưng hình hài nhân điểu (thân chim). Khuôn mặt tượng được tạc mềm mại với mắt nhỏ, lông mày sắc, môi tô son, mũi thẳng, mặt trái xoan, tai to… Thân mặc chiếc váy có nhiều nếp và hoa văn, được thể hiện trong tư thế nhảy múa tay dang ra, uốn cong lên, xòe rộng đôi cánh với ba lớp lông. Bụng của Kinara được buộc một dải lụa đỏ, để giữ lấy phần áo, chân trong tư thế gập chéo về một bên.
Dù đã qua nhiều lần tu sửa song may mắn toàn bộ những cấu kiện gỗ quý gồm như hai bức phù điêu cô tiên, các đầu kê được chạm lộng tinh xảo vẫn được giữ lại nguyên trạng và điều may mắn hơn cả mà dân làng vẫn nói là được “ngài phù” đó chính chiếc chuông đồng hơn 1.000 năm tuổi-chuông Nhật Tảo.