Bộ Công Thương lên chiến lược cho ngành ô tô Việt Nam đến năm 2030

Tại dự thảo Chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến 2030, Bộ Công Thương đặt ra nhiều mục tiêu quan trọng.

Mục tiêu tăng trưởng thị trường ô tô Việt Nam

Theo Bộ Công Thương, đến năm 2030, cần chú trọng phát triển để giúp tăng trưởng thị trường xe ô tô trong nước đạt tốc độ bình quân khoảng từ 14 - 16% /năm, tổng lượng xe tiêu thụ đạt khoảng 1.000.000 - 1.100.000 chiếc, trong đó xe đến 9 chỗ khoảng 550.000 chiếc (chiếm 55%), từ 10 chỗ trở lên khoảng 50.000 chiếc (chiếm 5%), xe tải khoảng 350.000 chiếc (chiếm 35%), xe chuyên dụng khoảng 50.000 chiếc (chiếm 5%).

Đến 2030, tổng lượng xe tiêu thụ mỗi năm tại Việt Nam đạt khoảng 1 - 1,1 triệu chiếc

Đến 2030, tổng lượng xe tiêu thụ mỗi năm tại Việt Nam đạt khoảng 1 - 1,1 triệu chiếc

Mức tiêu thụ đặt ra tới năm 2030 gấp khoảng 2,5 lần số liệu ghi nhận vào cuối năm 2023. Bộ Công Thương dẫn báo cáo của Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia cho biết năm 2023, lượng xe trên toàn quốc đăng ký mới là hơn 408.500 chiếc. Tổng số xe đã đăng ký lũy kế đến cuối năm là 6,31 triệu chiếc.

Mức này cũng gấp đôi lượng bán ra kỷ lục trong năm 2022, vượt 500.000 xe, thuộc nhóm 4 thị trường lớn nhất Đông Nam Á. Thời điểm đó, doanh số nửa triệu xe tại khu vực vốn chỉ có 3 thị trường lớn nhất là Thái Lan, Indonesia và Malaysia đạt được. Cùng đó, tăng trưởng sức mua của thị trường ô tô Việt Nam cao thứ hai khu vực, chỉ sau Malaysia.

Theo Bộ Công Thương, từ năm 2011 đến nay, thị trường ô tô Việt Nam liên tục tăng trưởng. Hiện, mức sở hữu xe bình quân đầu người là 63 xe trên 1.000 dân vào 2023. Nếu chỉ tính xe du lịch dưới 9 chỗ, tỷ lệ sở hữu ô tô là 30 xe trên 1.000 dân. Tỷ trọng xe cá nhân, gia đình và tổ chức chiếm 67% tổng lượng ô tô đang lưu hành toàn quốc, theo cơ quan quản lý.

Bộ Công Thương đặt mục tiêu tăng trưởng thị trường tiêu thụ xe ô tô trong nước 11 - 12%/năm giai đoạn 2031 -2045

Bộ Công Thương đặt mục tiêu tăng trưởng thị trường tiêu thụ xe ô tô trong nước 11 - 12%/năm giai đoạn 2031 -2045

Đến năm 2045, Bộ Công Thương đặt mục tiêu tăng trưởng thị trường tiêu thụ xe ô tô trong nước tăng trưởng bình quân hàng năm giai đoạn 2031 - 2045 là 11 - 12%/năm, tổng lượng xe đạt 5.000.000 - 5.700.000 chiếc, trong đó: xe đến 9 chỗ chiếm khoảng 68 - 70%, từ 10 chỗ trở lên chiếm 5 - 6%, xe tải chiếm 23 - 24%, xe chuyên dụng chiếm khoảng 2 - 3%. Tỷ lệ xe điện và xe sử dụng hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác đạt 4.300.000 - 4.400.000 chiếc, chiếm khoảng 80 - 85 %.

Đáng chú ý, trong Dự thảo, Bộ Công Thương nhấn mạnh, đến năm 2030, tỉ lệ xe điện và xe sử dụng hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác sẽ chiếm khoảng 18 - 22%.

Khi xây dựng chiến lược lần này, Bộ Công Thương cũng muốn tăng tỉ lệ xe sản xuất lắp ráp trong nước lên khoảng 70% so với nhu cầu nội địa vào 2030, và đáp ứng 87% vào năm 2045. Hiện, tỷ trọng xe nhập khẩu nguyên chiếc (CBU) vẫn khá lớn, khoảng trên 40%, theo dữ liệu từ Tổng cục Hải quan và VAMA.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ

Cơ quan phụ trách ngành công nghiệp ô tô Việt Nam định hướng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ. Cụ thể, đến 2030, ngành công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất ô tô sẽ đáp ứng khoảng 55-60% nhu cầu về linh kiện, phụ tùng cho sản xuất lắp ráp trong nước, tăng lên 80-85% vào 2045.

Ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ tăng ứng dụng công nghệ để chế tạo các chi tiết, linh kiện quan trọng như bộ truyền động, hộp số, động cơ, thân vỏ xe. Họ cũng phải tăng hợp tác với các hãng ôtô lớn, lựa chọn loại phụ tùng, linh kiện có thể sản xuất để đảm nhận vai trò mắt xích trong chuỗi sản xuất - cung ứng toàn cầu.

Bộ Công Thương định hướng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô

Bộ Công Thương định hướng đẩy mạnh công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô

Hiện, cả nước có khoảng 30.000 doanh nghiệp cơ khí, chiếm gần 30% tổng số doanh nghiệp công nghiệp chế biến chế tạo. Song, theo Bộ Công Thương, chất lượng nguồn nhân lực ngành cơ khí chưa đáp ứng nhu cầu vận hành các thiết bị công nghệ cao. Đây là một trong những vấn đề quan trọng ảnh hưởng đến sản xuất, hiệu quả kinh tế của ngành gia công cơ khí.

Trong khi đó, những linh kiện nội địa hóa được, chủ yếu là các chi tiết cồng kềnh, giản đơn, sử dụng nhiều nhân công, giá rẻ như ghế, ắc quy, nhựa cỡ lớn. Phần lớn linh kiện yêu cầu hàm lượng chất xám, kỹ thuật cao phải nhập khẩu. Doanh nghiệp trong nước cũng chưa sản xuất được các cụm linh kiện phức tạp.

Những bộ phận trên xe hơi được làm chủ yếu từ sắt thép, trong khi Việt Nam vẫn chưa tự chủ được nguồn cung này. Đặc biệt, những bộ phận chịu lực, nhiệt cao như động cơ, hộp số, trục khuỷu đều phải làm từ gang xám, gang dẻo, gang cầu, hợp kim nhôm mà Việt Nam vẫn phải nhập khẩu.

Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam chưa thực sự "lớn mạnh"

Ngành công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam chưa thực sự "lớn mạnh"

Thông thường, chuỗi giá trị ngành ô tô chia làm 2 phần. Hạ nguồn là các khâu thiết kế, sản xuất linh kiện, phụ tùng cấp 1, cấp 2. Khâu này chiếm gần 60% giá trị thành phẩm xe nhưng các doanh nghiệp ôtô nội địa hoàn toàn bị động.

Còn khâu thượng nguồn, gồm lắp ráp, phân phối, bán hàng và chăm sóc khách hàng, chỉ đóng góp khoảng 15% tổng giá trị xe. Đây chính là khâu các doanh nghiệp Việt Nam đang làm.

Thái Lan, hiện có 710 nhà cung cấp cấp 1, 1.700 đơn vị cấp 2 phục vụ ngành công nghiệp sản xuất ôtô. Nhưng, Việt Nam chỉ có khoảng 33 nhà cung cấp cấp 1 và khoảng 200 nhà cấp 2. Thậm chí, Việt Nam không có một nhà cung cấp có tên tuổi lớn chuyên cung ứng các sản phẩm, dịch vụ cho ngành này.

Để đạt được các mục tiêu, Bộ Công Thương cho rằng, cần phát huy nội lực của quốc gia; chú trọng liên kết, hợp tác với các tập đoàn sản xuất ô tô lớn trên thế giới để phát triển ngành công nghiệp ô tô theo hướng đồng bộ với phát triển hạ tầng giao thông; đáp ứng đầy đủ cho nhu cầu thị trường nội địa và định hướng ngày càng tham gia sâu vào chuỗi giá trị ngành tô tô toàn cầu; mở rộng, nâng cao kim ngạch và giá trị gia tăng trong xuất khẩu các sản phẩm của ngành ô tô; đáp ứng các yêu cầu mới của thị trường, đi tiên phong trong vấn đề bảo vệ môi trường và định hướng chuyển dịch hoàn toàn sang sản xuất, cung ứng các sản phẩm ô tô sử dụng xe điện hóa, xe hybrid, xe sử dụng năng lượng mặt trời, sử dụng nhiên liệu sinh học và nhiên liệu xanh mới khác... phù hợp với định hướng phát triển năng lượng quốc gia, góp phần tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế của cả nước theo hướng văn minh, hiện đại.

Đặc biệt, Bộ Công Thương đề xuất xây dựng các chính sách khuyến khích phát triển nhu cầu thị trường, đặc biệt là các chính sách ưu đãi thuế tiêu thụ đặc biệt hài hòa cho các loại xe điện khí hóa, xe sử dụng năng lượng xanh mới để phát triển thị trường; Xây dựng chính sách hỗ trợ cho khách hàng/ người tiêu dùng phí đỗ xe, thuế môi trường... đối với tất cả các loại xe điện khí hóa, xe sử dụng năng lượng xanh mới; Phát triển thị trường trong nước trên cơ sở phát triển hệ thống trạm sạc diện, trạm bơm các nhiêm liệu xanh mới; Xây dựng và phát triển thương hiệu xe ô tô sản xuất trong nước; Phát triển tiêu thụ xe ô tô trên cơ sở chú trọng phát triển khu vực nông thôn, muồn núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoàn trung và dài hạn,...

Thế Đạt

Nguồn Cartimes: http://cartimes.tapchicongthuong.vn/bo-cong-thuong-len-chien-luoc-cho-nganh-o-to-viet-nam-den-nam-2030-16177.htm