Cho vay mua nhà phục hồi chậm; Sẽ tiếp tục thanh tra thị trường vàng

Tiếp tục thanh tra thị trường vàng, lợi nhuận quý III/2024 chưa đạt kỳ vọng, tín dụng tháng 9 tăng đột biến, sắp chuyển giao bắt buộc CBBank và OCeanBank, cho vay mua nhà phục hồi chậm... là tiêu điểm ngân hàng tuần qua.

Sẽ tiếp tục thanh tra thị trường vàng

Trả lời câu hỏi của cử tri Thái Nguyên, An Giang, Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian tới sẽ tiếp tục thanh tra thị trường vàng và đang hoàn thiện báo cáo đề xuất sửa Nghị định 24/2012/NĐ-CP.

Trong thời gian qua, giá vàng thế giới liên tục tăng cao, lập đỉnh lịch sử vào ngày 26/9/2024 ở mức 2.700 USD/ounce.

Trong văn bản trả lời ý kiến cử tri An Giang, Thái Nguyên, Ngân nàng Nhà nước cho biết, giá vàng thế giới tăng cao là vàng là hàng hóa đặc thù, có tính thanh khoản cao, là tài sản cất trữ được ưa chuộng đặc biệt trong những giai đoạn kinh tế, địa chính trị biến động; tâm lý của giới đầu tư bị ảnh hưởng từ những bất ổn kinh tế vĩ mô, tình hình lạm phát, căng thẳng địa chính trị trên thế giới, sự kiện ngân hàng Credit Suisse của Thụy Sĩ và một số ngân hàng Mỹ phá sản; ngân hàng trung ương các nước tăng cường mua vàng bổ sung cho dự trữ ngoại hối.

Giá vàng miếng trong nước tăng và chênh lệch ở mức cao so với giá vàng quốc tế từ năm 2021 đến nay. Từ mức chênh lệch khoảng trên dưới 3 triệu đồng/lượng giai đoạn 2014 - 2021, từ cuối năm 2021 tới nay, chênh lệch giá so với thế giới tăng cao và có lúc lên tới 18 triệu đồng/lượng (~25%). Điều này có nguy cơ tác động đến tâm lý xã hội về ổn định kinh tế vĩ mô, tiền tệ.

Thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, căn cứ các quy định pháp luật hiện hành, Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp cùng các bộ, ngành và các địa phương triển khai tổng thể các giải pháp để xử lý tình trạng chênh lệch giá vàng cao, ổn định thị trường vàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.

Cụ thể, Ngân nhàng Nhà nước đã chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước các địa phương phối hợp với các cơ quan chức năng tăng cường công tác nắm tình hình, kiểm tra, thanh tra đối với hoạt động kinh doanh vàng tại địa phương.

Yêu cầu các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp được cấp phép kinh doanh mua, bán vàng miếng chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật về hoạt động kinh doanh vàng; thực hiện chế độ hóa đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.

Đề nghị Bộ Công an, Bộ Công thương, Bộ tài chính tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát… theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu vàng qua biên giới, thao túng, trục lợi… gây mất ổn định thị trường vàng.

Phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý và các cơ quan báo chí, truyền thông; kịp thời chia sẻ, cung cấp các thông tin về chủ trương, chính sách quản lý thị trường; làm tốt công tác truyền thông về các giải pháp, định hướng của Ngân nhàng Nhà nước.

Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, Ngân hàng Nhà nước đã tổ chức đấu thầu và bán vàng miếng trực tiếp để bổ sung nguồn cung vàng miếng SJC cho thị trường.

Phối hợp với các bộ ngành (đặc biệt là Bộ Công an) và chính quyền các địa phương để đảm bảo an ninh trật tự, đảm bảo hiệu quả của các phương án can thiệp.

Với những giải pháp đồng bộ của và sự phối hợp hiệu quả của các cơ quan chức năng, chênh lệch giữa giá vàng miếng SJC trong nước và giá vàng thế giới quy đổi đã giảm đáng kể (ngày 25/9/2024, chênh lệch khoảng 4 triệu đồng/lượng).

Ngân hàng Nhà nước cho biết, thời gian tới sẽ tiếp tục thực hiện các biện pháp cần thiết theo quy định để kiểm soát chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới ở mức phù hợp theo chỉ đạo của các cấp thẩm quyền.

Phối hợp với các bộ, ngành liên quan quyết liệt triển khai công tác thanh tra, kiểm tra đối với thị trường vàng, hoạt động của các doanh nghiệp kinh doanh vàng, các cửa hàng, đại lý phân phối và mua bán vàng miếng.

Trong đó, tập trung nguồn lực để hoàn thành việc thanh tra theo Quyết định số 324/QĐ-TTGSNH2 ngày 17/5/2024 đối với 2 tổ chức tín dụng và 4 doanh nghiệp kinh doanh vàng theo đúng kế hoạch. Kiên quyết đấu tranh làm rõ, xử lý và đề xuất các cấp thẩm quyền xử lý nghiêm đối với các vi phạm, kể cả vi phạm pháp luật hình sự (nếu có).

Lợi nhuận ngân hàng quý III/2024 chưa như kỳ vọng

Lợi nhuận ngân hàng trong quý III/2024 có cải thiện, nhưng chưa được như kỳ vọng và bức tranh lợi nhuận ngân hàng trong 3 quý đầu năm có sự phân hóa ngày càng rõ nét.

Saigonbank vừa có thông báo về kết quả kinh doanh 9 tháng, với lợi nhuận trước thuế đạt hơn 200 tỷ đồng, bằng 55% chỉ tiêu kế hoạch năm 2024. Kết thúc quý III/2024, dư nợ tín dụng của Saigonbank tăng 5% so với cùng kỳ năm trước và 2% so với đầu năm, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng.

Tính đến tháng 8/2024, lợi nhuận trước thuế lũy kế của Nam A Bank đạt hơn 75% kế hoạch năm 2024. Biên lãi thuần (NIM) của Nam A Bank tiếp tục được cải thiện lên mức 3,8% (so với 3,6% tại cuối quý II). Ngân hàng dự kiến NIM từ thời điểm này đến hết năm 2024 sẽ duy trì trong khoảng 3,5 - 3,8% với việc mặt bằng lãi suất tiếp tục duy trì thấp để hỗ trợ cá nhân và doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế còn nhiều khó khăn.

Trong báo cáo dự báo lợi nhuận sau thuế quý III/2024, MBS đặt kỳ vọng ngành ngân hàng sẽ duy trì mức tăng trưởng ổn định. Trong đó, tín dụng quý III tiếp tục cải thiện so với quý II nhờ sự phục hồi của hoạt động sản xuất - kinh doanh. Cập nhật đến ngày 17/9, tăng trưởng tín dụng đạt 7,38%, so với 6,1% vào cuối quý II/2024.

Theo MBS, hầu hết các ngân hàng tăng dần lãi suất tiền gửi để đẩy mạnh hoạt động huy động vốn, trong khi lãi suất cho vay vẫn duy trì ở mức thấp để hỗ trợ nền kinh tế.

Các chuyên viên phân tích MBS cho rằng, thu nhập ngoài lãi vẫn ảm đạm và chưa thể phục hồi khi vẫn chỉ dựa chủ yếu vào mảng thu phí và xử lý nợ. Hoạt động kinh doanh ngoại hối và chứng khoán dự kiến không thể tăng trưởng cao, khi tình hình thị trường chưa có nhiều tín hiệu khởi sắc.

MBS cho rằng, nợ xấu các ngân hàng niêm yết trong quý III/2024 không tăng so với quý liền trước.

Về kết quả kinh doanh, lợi nhuận ròng các ngân hàng có thể tăng 16,5% so với cùng kỳ trong quý III/2024. MBS đánh giá, một số ngân hàng như HDBank, TPBank sẽ đạt được tăng trưởng lợi nhuận cao nhờ tăng trưởng tín dụng tốt. Báo cáo vừa công bố của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến ngày 27/9/2024, tăng trưởng tín dụng của nền kinh tế đạt 8,53% (cùng thời điểm năm trước tăng 6,24%). Tuy nhiên, kết quả điều tra quý III/2024 của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, các tổ chức tín dụng dự báo, tăng trưởng tín dụng cả năm 2024 chỉ đạt 13,2%, huy động vốn chỉ tăng 7,9%.

Còn tình hình kinh doanh tổng thể và lợi nhuận trước thuế của hệ thống ngân hàng trong quý III/2024 có cải thiện, nhưng chưa đạt được như kỳ vọng ở kỳ điều tra trước.

Cụ thể, 71,9 - 76,3% tổ chức tín dụng kỳ vọng kinh doanh sẽ khả quan hơn trong quý IV/2024 và cả năm 2024. Tỷ lệ tổ chức tín dụng kỳ vọng lợi nhuận trước thuế tăng trưởng dương so với năm 2023 là 79,6%, trong khi 15,9% tổ chức tín dụng lo ngại lợi nhuận tăng trưởng âm trong năm 2024 và 4,4% cho rằng, lợi nhuận không thay đổi.

HDBank kỳ vọng tăng trưởng lợi nhuận 44% trong quý III và 31% cho cả năm 2024. TPBank lợi nhuận sau thuế dự kiến tăng 35% trong quý III và 23% cho cả năm. VPBank kỳ vọng lợi nhuận tăng 37% trong quý III và 69% cho cả năm 2024. BIDV sẽ ghi nhận lợi nhuận tăng trưởng 20% trong quý III/2024 và 17% cho cả năm nhờ tín dụng cải thiện.

Ngược lại, theo MBS, Techcombank, Sacombank có mức tăng trưởng tín dụng chậm lại trong quý III/2024. Với Techcombank, lợi nhuận trong quý III được dự báo tăng 20% so với cùng kỳ, lợi nhuận cả năm tăng 34%.

Còn Eximbank và VietinBank được dự báo có tăng trưởng lợi nhuận cao nhờ mức nền thấp trong quý III năm ngoái. Lợi nhuận của Eximbank khả năng tăng trưởng tới 70% và NIM duy trì tương đương so quý II/2024. Cả năm 2024, lợi nhuận của Eximbank dự kiến chỉ tăng 16%. Tại VietinBank, lợi nhuận sẽ tăng 40% so với cùng kỳ, trong bối cảnh NIM duy trì tương đương nửa đầu năm và chi phí trích lập đi ngang. Cả năm 2024, lợi nhuận của VietinBank dự kiến tăng 12%...

LPBank dự báo lợi nhuận tăng 41% so với cùng kỳ nhờ mức nền thấp trong năm 2024. Cả năm 2024, lợi nhuận của LPBank dự kiến tăng 46%.

Trong danh sách của MBS, có 4 ngân hàng được dự báo có mức tăng trưởng lợi nhuận thấp hơn trung bình ngành hoặc tăng trưởng âm. Trong đó, lợi nhuận quý III của Vietcombank kỳ vọng tăng 9%, cả năm tăng 5%. ACB có lợi nhuận quý III tăng 7% và cả năm là 6% trong bối cảnh NIM được dự báo giảm nhẹ và room tín dụng không còn quá nhiều. Trong khi đó, lợi nhuận của VIB giảm 19% trong quý III và 10% cho cả năm; OCB có mức lợi nhuận giảm do nền cao của năm 2023.

Theo các nhà phân tích của Chứng khoán Rồng Việt (VDSC), VPBank, VietinBank và HDBank là 3 ngân hàng có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao nhất trong quý III. Nhóm ngân hàng có thể đạt tăng trưởng ở mức khá (từ 15 đến 25%) gồm BIDV, Techcombank, ACB và MB. Trong khi đó, Vietcombank, VIB và OCB có mức tăng trưởng dưới 10%.

VDSC cho rằng, quý III/2023 là thời điểm NIM tạo đáy, tín dụng tăng chậm do cả cung lẫn cầu đều có nhiều yếu tố giới hạn, chi phí tín dụng tạo đỉnh.

Tín dụng tăng bất thường: Do “kỹ thuật” hay cầu vốn tăng đột biến?

Tín dụng tháng 9/2024 có tốc độ tăng cao gấp gần 3 lần tốc độ tăng bình quân các tháng đầu năm, khiến khả năng đạt chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng toàn ngành năm 2024 (15%) trở nên khả thi.

Báo cáo Chính phủ tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9/2024, Thống đốc ngân hàng Nhà nước cho hay, tính đến ngày 30/9, tín dụng tăng 9%, nên mục tiêu tăng trưởng 15% của cả năm là hoàn toàn khả thi. Trước đó, Ngân hàng Nhà nước cho biết, tính đến ngày 26/8, tín dụng toàn hệ thống tăng 6,63%.

Như vậy, trong tháng 9 và tuần cuối cùng của tháng 8, tín dụng tăng 2,37%, cao gấp gần 3 lần so với tốc độ tăng bình quân của 8 tháng đầu năm (hơn 0,8%/tháng).

Trước đó, Ngân hàng Nhà nước nhiều lần giải thích, tín dụng tăng cao vào những tháng cuối năm là hoàn toàn bình thường, do cầu vốn của nền kinh tế thường tăng cao vào những tháng cuối năm.

PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân (Đại học Kinh tế TP.HCM) cho rằng, tín dụng đang cải thiện dần về cuối năm do cầu vốn gia tăng. Việc Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) giảm lãi suất hỗ trợ tốt hơn cho cầu tín dụng xuất khẩu. Thị trường bất động sản ấm hơn cũng đang hút vốn tín dụng. Ngoài ra, cơn bão lịch sử Yagi đã gây ra thiệt hại lớn cho 26 tỉnh phía Bắc, nên cầu tín dụng để phục hồi, tái sản xuất của doanh nghiệp và người dân các tỉnh này đang rất lớn.

Tuy vậy, nhìn vào lịch sử, tín dụng cũng nhiều lần ghi nhận tăng trưởng bất thường vào một số thời điểm then chốt (như trước khi Ngân hàng Nhà nước xem xét cấp room tín dụng). Cụ thể, tháng 6/2023, tín dụng tăng 1,46%, gấp 6 lần tốc độ tăng của tháng liền trước đó (tháng 5/2023). Tín dụng tháng 12/2023 của ngành ngân hàng tăng tới hơn 4,6%, cao gấp 4 lần so với tốc độ tăng trung bình hàng tháng năm 2023.

Như vậy, tín dụng bứt tốc bất ngờ thời điểm này, ngoài yếu tố cầu vốn tăng, cũng không loại trừ yếu tố “kỹ thuật” khi thời điểm cấp room tín dụng cho năm sau không còn xa.

Trừ việc tăng trưởng đột biến trong tháng 9/2024, nhìn chung, tín dụng 9 tháng đầu năm vẫn tăng trưởng chậm. Theo báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, tăng trưởng tín dụng những tháng đầu năm còn thấp, khả năng hấp thụ vốn và tiếp cận vốn tín dụng của doanh nghiệp trong 9 tháng còn hạn chế.

Theo phản ánh của các tổ chức tín dụng, nhu cầu vốn của nền kinh tế còn yếu, đặc biệt là tín dụng bán lẻ. Trong 9 tháng đầu năm nay, tăng trưởng tín dụng của nhiều ngân hàng chủ yếu dựa vào phân khúc khách hàng doanh nghiệp, trong khi cầu vốn của khu vực khách hàng cá nhân rất yếu. Đơn cử, trong lĩnh vực bất động sản, cho vay các chủ đầu tư, doanh nghiệp có tốc độ tăng cao gấp 10 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng cá nhân mua nhà, sửa nhà.

Ngoài cầu tín dụng yếu, cung - cầu vốn cũng chưa thật sự gặp nhau. Nhiều doanh nghiệp có nhu cầu, song không thể tiếp cận vốn vì đã cạn kiệt tài sản thế chấp sau 2 năm Covid-19 và thiên tai.

Bà Nguyễn Thị Hải Bình, Tổng giám đốc STP Group cho hay, bão Yagi đã xóa sổ gần như toàn bộ vùng nuôi trên biển của doanh nghiệp này. Bà Bình cho biết, Công ty muốn vay 30 tỷ đồng từ ngân hàng để khởi nghiệp lại, nhưng lo không thể vay vốn vì tài sản thế chấp không có. Vùng nuôi trên biển của doanh nghiệp trước đó chưa được định giá và chưa tham gia bảo hiểm, nên gần như mất trắng.

Mặc dù các ngân hàng đều cho biết sẵn sàng cho vay không có tài sản đảm bảo, song để vay được vốn, doanh nghiệp cũng cần đáp ứng nhiều điều kiện khắt khe từ phía ngân hàng.

Về vấn đề này, PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân cũng cho rằng, cầu vốn tăng mạnh vào cuối năm là thực tế, song vốn có chảy được hay không lại là chuyện khác. Trên thực tế, rất nhiều khách hàng có nhu cầu vay vốn, nhưng không thể tiếp cận tín dụng. Đây là nguyên nhân khiến tín dụng 9 tháng đầu năm vẫn chậm.

Trong khi đó, về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho rằng, do 98% doanh nghiệp nước ta là doanh nghiệp nhỏ và vừa, nên cần có đánh giá để tăng cường bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp này, từ đó khơi thông dòng vốn tín dụng.

Nhiều chuyên gia kinh tế cũng cho rằng, nên mở rộng hoạt động của các quỹ hỗ trợ, quỹ bảo lãnh để doanh nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn vay, thay vì chỉ yêu cầu hạ chuẩn cấp tín dụng - vốn dễ gây rủi ro cho toàn hệ thống ngân hàng.

Hỗ trợ doanh nghiệp phục hồi sau bão: Ngân hàng lo cơ cấu nợ là chưa đủ

Sắp có thông tư hướng dẫn cơ cấu nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi bão số 3 (bão Yagi), song không phải khách hàng nào cũng có thể hưởng lợi.

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang chuẩn bị ban hành thông tư quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. Theo dự thảo, thời gian cơ cấu lại thời hạn trả nợ tối đa là 1 năm kể từ ngày được cơ cấu lại, nhưng không muộn hơn ngày 31/12/2026.

Việc ban hành thông tư này được giới chuyên gia, doanh nghiệp và các ngân hàng đánh giá cao.

TS. Võ Trí Thành, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia đánh giá, việc ban hành thông tư một mặt giúp doanh nghiệp có thêm thời gian để phục hồi hoạt động sản xuất, mặt khác giúp ngân hàng không vướng phải giới hạn về nợ xấu để có thể tiếp tục cho vay.

Tuy vậy, nhiều chuyên gia cũng lưu ý, không phải doanh nghiệp, cá nhân nào bị thiệt hại do bão số 3 cũng được cơ cấu nợ.

Trước hết, ngân hàng chỉ cơ cấu nợ cho các khách hàng được đánh giá là có khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc, lãi theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại.

Thứ hai, các ngân hàng cơ cấu nợ bằng nguồn lực của chính mình, nên tùy vào nguồn lực, tiềm lực tài chính của từng ngân hàng mà sẽ quyết định lượng khách hàng được cơ cấu nợ.

Thực tế, việc cơ cấu nợ và giảm lãi suất cho doanh nghiệp sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe tài chính, chỉ tiêu lợi nhuận của các ngân hàng. Bà Hồ Thị Hồng Thắm, Giám đốc Agribank Đông Hải Phòng cho hay, chi nhánh ngân hàng này xác định không có lợi nhuận kinh doanh quý IV/2024 để dành toàn lực hỗ trợ doanh nghiệp. Tuy nhiên, không phải chi nhánh ngân hàng nào cũng có thể hy sinh toàn bộ lợi nhuận để hỗ trợ doanh nghiệp.

Một vấn đề đáng chú ý nữa, theo quy định hiện hành của Thông tư 02/2023/TT-NHNN, tổ chức tín dụng khi thực hiện cơ cấu nợ phải trích lập đầy đủ 100% dự phòng cụ thể với toàn bộ dư nợ. Dự thảo thông tư mới không đề cập vấn đề trích lập dự phòng rủi ro, song nếu cơ chế này được áp dụng (phải trích lập dự phòng cụ thể 100% với nợ được cơ cấu), thì gánh nặng dự phòng của các ngân hàng sẽ tăng lên rất mạnh, khiến lợi nhuận bị ăn mòn.

Được biết, NHNN đã báo cáo trình Thủ tướng Chính phủ cho phép tổ chức tín dụng được giữ nguyên nhóm nợ, trích lập dự phòng rủi ro nhằm hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn do ảnh hưởng, thiệt hại của bão số 3. Nếu đề xuất này được chấp thuận, các ngân hàng có thêm động lực để thực hiện cơ cấu nợ và có thêm nguồn lực để hỗ trợ doanh nghiệp.

Ông Nguyễn Hưng, Tổng giám đốc TPBank cho rằng, mặc dù ngành ngân hàng đang dành mọi nguồn lực, cơ chế để hỗ trợ khách hàng, thậm chí chủ động hy sinh lợi nhuận, giảm lãi suất cho khách hàng, nhưng cơn bão gây thiệt hại quá lớn, nên những hỗ trợ trên chưa đủ để trợ giúp người dân, doanh nghiệp sớm hồi phục.

Về vấn đề này, PGS-TS. Nguyễn Hữu Huân (Trường đại học kinh tế TP.HCM) cũng cho rằng, ngân hàng cũng là một doanh nghiệp. Thế nên, các ngân hàng có thể dành một phần nguồn lực của mình để hỗ trợ doanh nghiệp (thông qua giảm lãi vay, thực hiện cơ cấu nợ), song ngân hàng phải ưu tiên hàng đầu cho an toàn hoạt động của mình. Do đó, để hỗ trợ doanh nghiệp tốt nhất, thì không thể chỉ dựa vào nguồn lực ngân hàng, mà còn phải tìm kiếm các nguồn lực khác.

Trước mắt, nhiều doanh nghiệp cho biết, họ rất mong sớm được hướng dẫn thủ tục khoanh nợ, khi hầu hết tài sản đã mất trắng trong cơn bão số 3. Tuy nhiên, thủ tục khoanh nợ rất phức tạp và quá trình diễn ra rất dài. Theo NHNN, thực tế việc xử lý khoanh nợ cho khách hàng thuộc lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn cần 6-8 tháng, có trường hợp hơn 1 năm do phải thực hiện xử lý tại nhiều cấp ở địa phương, các bộ và trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định.

Vì vậy, trong khi chờ đợi các địa phương, bộ, ngành thực hiện thủ tục đánh giá thiệt hại và thực hiện thủ tục khoanh nợ, TS. Võ Trí Thành cho rằng, cần điều phối một số nguồn lực từ các chương trình trước đây vẫn chưa sử dụng hết sang hỗ trợ doanh nghiệp, người dân bị ảnh hưởng bởi bão lũ.

Ngoài ra, theo bà Phùng Thị Bình, Phó tổng giám đốc Agribank, ngoài nguồn lực của các ngân hàng thương mại, rất cần có chính sách đồng bộ từ Chính phủ, bộ, ban, ngành, như cho phép khoanh nợ, giảm thuế, giãn thuế, hỗ trợ phí bảo hiểm… để khách hàng vượt qua khó khăn, sớm hồi phục sản xuất, ổn định cuộc sống.

Sắp tổ chức chuyển giao bắt buộc CBBank và OceanBank, hoàn thiện phương án tăng vốn cho big 4

Báo cáo của Chính phủ cho biết đang hoàn thiện phương án chuyển giao đối với 2 ngân hàng mua bắt buộc là CBBank và OceanBank, đồng thời tiếp tục hoàn thiện phương án chuyển giao đối với 2 ngân hàng còn lại là GPBank và DongA Bank.

Báo cáo của Chính phủ về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 đã cập nhật kết quả tái cơ cấu các tổ chức tín dụng.

Chính phủ cho biết hiện đã hoàn thiện phương án chuyển giao đối với 2 ngân hàng mua bắt buộc là CBBank và OceanBank, đồng thời đang tiếp tục hoàn thiện phương án chuyển giao đối với 2 ngân hàng còn lại là GPBank và DongA Bank.

Đối với Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn (SCB), Chính phủ xem xét, quyết định chủ trương cơ cấu lại.

Phát biểu tại Phiên họp Chính phủ thường kỳ sáng 7/10, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng cũng cho biết, ngành ngân hàng đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng tích cực rà soát tình hình tài chính và chuẩn bị sẵn sàng tài liệu sẽ tổ chức lễ chuyển giao 2 ngân hàng 0 đồng. Hai ngân hàng còn lại, Ngân hàng Nhà nước cũng đang chỉ đạo các đơn vị hoàn thiện nhanh để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.

Tại ĐHĐCĐ Vietcombank năm 2024, Thành viên HĐQT Đỗ Việt Hùng cho biết, dự kiến việc chuyển giao sẽ được thực hiện trong năm nay.

Tương tự, tại ĐHĐCĐ thường niên Ngân hàng Quân Đội (MB) năm 2024, Tổng giám đốc Phạm Như Ánh kỳ vọng có thể hoàn thành việc nhận chuyển nhượng bắt buộc một ngân hàng trong năm 2024 hoặc trong năm 2025. Chủ tịch MB Lưu Trung Thái cho biết thêm, ngân hàng đã trình và hoàn tất mọi thủ tục từ phía MB, chỉ đợi kết quả phê duyệt và đã sẵn sàng nhận chuyển giao.

Liên quan đến các nội dung khác của Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2021-2025, báo cáo của Chính phủ cho biết thêm về nội dung tăng vốn cho nhóm ngân hàng thương mại nhà nước và vấn đề xử lý nợ xấu.

Theo đó, nhóm các ngân hàng thương mại nhà nước tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống tổ chức tín dụng cả về quy mô vốn, tài sản, huy động vốn và tín dụng. Các giải pháp nâng cao năng lực tài chính, tăng vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại Nhà nước tiếp tục được triển khai tích cực. Hiện đã trình cấp có thẩm quyền Phương án đầu tư bổ sung vốn nhà nước tại Ngân hàng Vietcombank; hoàn thiện hồ sơ tăng vốn điều lệ đối với các ngân hàng VCB, BIDV, Vietinbank và Ngân hàng Hợp tác xã; hoàn thiện các thủ tục chuyển cấp bổ sung vốn điều lệ cho ngân hàng Agribank theo các nghị quyết, quyết định của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ.

Các ngân hàng thương mại cổ phần tập trung củng cố, chấn chỉnh toàn diện trên các mặt tài chính, quản trị và hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh. Thực hiện cơ cấu lại hoạt động theo hướng an toàn, lành mạnh hơn, giảm dần và hạn chế đầu tư vào các lĩnh vực tiềm ẩn rủi ro như cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán, bất động sản, chấm dứt huy động và cho vay vốn bằng vàng; tích cực phát triển các dịch vụ thanh toán, dịch vụ phi tín dụng khác và mở rộng dịch vụ bán lẻ, tín dụng tiêu dùng.

Về xử lý nợ xấu, tính đến cuối tháng 6/2024, nợ xấu nội bảng của hệ thống các tổ chức tín dụng là 795.500 tỷ đồng, tăng 5,77% so với cuối năm 2023. Tỷ lệ nợ xấu nội bảng ở mức 4,56%. Trong 6 tháng đầu năm, toàn hệ thống xử lý được 167.300 tỷ đồng nợ xấu, tăng 45,6% so với cùng kỳ năm 2023.

Cho vay mua nhà phục hồi chậm, ngân hàng sốt ruột

Được kỳ vọng là động lực giúp tín dụng các ngân hàng bứt tốc những tháng cuối năm, song tín dụng mua nhà phục hồi chậm hơn dự kiến.

Giá nhà quá cao, trong khi thanh khoản thấp, cộng thêm lãi suất cho vay đang nhích lên khiến nhà đầu tư và người mua nhà thận trọng, chưa dám xuống tiền.

Bà Nguyễn Đức Thạch Diễm, Tổng giám đốc Sacombank cho hay, tín dụng ngân hàng 9 tháng đầu năm chưa đạt kỳ vọng. Một trong những nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là thu nhập của người mua bất động sản giảm, trong khi nguồn cung phục vụ nhu cầu để ở với giá hợp lý chưa đáp ứng.

Trong 9 tháng đầu năm nay, tăng trưởng tín dụng chủ yếu ghi nhận ở phân khúc bất động sản kinh doanh (cho vay chủ đầu tư) trong khi cho vay mua nhà tăng rất chậm.

Theo các chuyên viên phân tích Công ty chứng khoán VCBS, nhu cầu mua nhà chưa phục hồi do sự hạn chế về nguồn cung nhà ở. Bên cạnh đó, giá nhà ở (nhất là nhà chung cư khu vực trung tâm) tăng mạnh thời gian qua, gây ra tâm lý e ngại cho nhà đầu tư và người vay mua nhà để ở. Trong nửa đầu năm nay, tín dụng kinh doanh bất động sản tăng hơn 10%, trong khi tín dụng vay mua nhà tiêu dùng chỉ tăng hơn 1%.

Cho vay mua nhà được kỳ vọng là động lực tăng trưởng chính của tín dụng bán lẻ trong thời gian tới, trong bối cảnh mặt bằng lãi suất duy trì ở mức thấp và nhu cầu mua nhà để ở và đầu tư vẫn ở mức cao.

“Chúng tôi cho rằng, tín dụng bất động sản và xây dựng sẽ tiếp tục tăng nhanh trong thời gian tới khi nguồn cung khả quan hơn, với các Dự án tiếp tục được đẩy nhanh triển khai sau các nỗ lực hỗ trợ về lãi suất, pháp lý, đặc biệt sau khi các bộ luật mới về bất động sản có hiệu lực. Đồng thời, mặt bằng lãi suất cho vay ở mức thấp kích thích nhu cầu vay của doanh nghiệp bất động sản cũng như của người mua nhà”, chuyên viên phân tích VCBS nhận định.

Mặc dù vậy, theo ông Phan Lê Thành Long, CEO AFA Group, thực tế không như dự đoán. “Nhiều môi giới bất động sản cho rằng, lãi suất thấp sẽ kích thích dòng tiền chảy vào bất động sản, song thực tế cho thấy, dòng tiền nhàn rỗi đang không chảy vào bất động sản, mà lại chảy ngược vào tiết kiệm ngân hàng. Giá nhà quá cao, thị trường trong cảnh ‘khó mua, khó bán’ khiến giao dịch bất động sản giảm, chưa thu hút được dòng tiền”, ông Long cho hay.

Cho vay cá nhân mua nhà là một trong các phân khúc mang lại lợi nhuận lớn nhất cho các ngân hàng hiện nay. Đây cũng là lĩnh vực chiếm tỷ trọng dư nợ lớn trong danh mục tín dụng các nhà băng. Vì vậy, các ngân hàng đều rất mong mỏi tín dụng đối với phân khúc này sớm phục hồi.

Dù vậy, theo ông Phạm Đức Toản, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Đầu tư và Phát triển bất động sản EZ (EZ Property), hiện tại, nhiều người mua nhà "ngại" vay vốn ngân hàng, một phần vì đã trải qua cơn đau khi mắc kẹt bất động sản năm 2023.

Tín dụng mua nhà tăng mạnh năm 2021 và năm 2022, một phần do các ngân hàng áp dụng lãi suất cho vay rẻ thời Covid-19. Tuy vậy, lãi suất thả nổi tăng mạnh sau đó, cộng với thị trường bất động sản rơi vào khủng hoảng thanh khoản khiến nhiều nhà đầu tư phải bán tháo, cắt lỗ để giảm gánh nặng lãi suất.

Hiện nay, dù lãi suất cho vay mua nhà đã giảm, song người vay mua nhà vẫn lo ngại về lãi suất thả nổi sau khi ưu đãi kết thúc. Bên cạnh đó, giá nhà quá cao so với thu nhập và thanh khoản thị trường bất động sản chưa hồi phục khiến nhà đầu tư vẫn chưa xuống tiền.

Các chuyên gia phân tích Công ty Chứng khoán VPBankS cho rằng, tỷ lệ giá nhà ở trên thu nhập của người dân Việt Nam đã tăng và đang gấp khoảng 4 - 5 lần so với tỷ lệ khuyến nghị. Do đó, dù lãi suất cho vay mua nhà giảm đáng kể trong một năm qua, nhưng giá nhà vẫn neo ở mức cao, khiến nhiều người khó hiện thực "giấc mơ an cư" của mình.

Định giá bất động sản quá cao trong khi thanh khoản thấp không chỉ khiến người mua không thể lướt sóng, phải chôn vốn lâu dài, mà còn khiến người mua tích lũy khó kỳ vọng tỷ suất lợi nhuận cao. Giá nhà cao cũng khiến lợi nhuận từ cho thuê bất động sản giảm (chỉ chiếm khoảng 3% tổng giá trị đầu tư, thấp hơn nhiều so với lãi suất ngân hàng). Đây cũng là lý do dòng tiền chảy vào tiết kiệm, thay vì đổ vào bất động sản.

VPBankS kỳ vọng, các chính sách, cơ chế điều hòa giá nhà đất cho phù hợp với mức thu nhập của người dân hiện nay và gói tín dụng 120.000 tỷ đồng cho vay nhà ở xã hội... sẽ hỗ trợ thúc đẩy tăng trưởng tín dụng bền vững hơn.

Hiện nay, phân khúc nhà ở hạng B và hạng C (phân khúc nhà có giá hợp lý) gần như đã biến mất khỏi thị trường. Các chuyên gia cho rằng, ít nhất phải bước sang năm 2026, khi nguồn cung cải thiện, giá nhà bớt nóng, thì thị trường bất động sản mới có thể hồi phục. Giai đoạn hiện tại không phải là thời điểm phù hợp để “lướt sóng” hay mua nhà để ở. Một khi thanh khoản thị trường còn trầm lắng, ngân hàng chưa kỳ vọng tín dụng mua nhà bứt tốc.

Hơn 81.500 tỷ đồng trái phiếu đáo hạn trong quý IV/2024, chủ yếu là bất động sản

Từ đầu năm 2024 đến nay, tổng giá trị phát hành trái phiếu đạt gần 278.000 tỷ đồng. Trong 3 tháng cuối năm, tổng giá trị trái phiếu đến hạn thanh toán là hơn 81.500 tỷ đồng.

Báo cáo của Hiệp hội thị trường trái phiếu cho thấy, tính đến ngày công bố thông tin 27/9, đã có 25 đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) trong tháng 9/2024 được ghi nhận với tổng giá trị đạt 23.802 tỷ đồng.

Lũy kế từ đầu năm, tổng giá trị phát hành TPDN được ghi nhận là 277.450 tỷ đồng, với 15 đợt phát hành ra công chúng, trị giá 27.054 tỷ đồng (chiếm 9,8% tổng giá trị phát hành) và 268 đợt phát hành riêng lẻ trị giá 250.396 tỷ đồng (chiếm 90,2% tổng số).

Trong tháng 9/2024, các doanh nghiệp đã mua lại 11.221 tỷ đồng trái phiếu. Tính từ đầu năm đến nay, tổng giá trị trái phiếu đã được mua lại trước hạn đạt gần 137.000 tỷ đồng, giảm 23,3% so với cùng kỳ năm 2023. ngân hàng là nhóm ngành dẫn đầu, chiếm khoảng 71,7% tổng giá trị mua lại trước hạn (tương ứng khoảng 98.244 tỷ đồng).

Trong phần còn lại của năm 2024, tổng giá trị trái phiếu sẽ đến hạn là 81.528 tỷ đồng. Trong đó, 43,9% giá trị trái phiếu sắp đáo hạn thuộc nhóm bất động sản với khoảng 35.758 tỷ đồng, theo sau là nhóm ngân hàng với gần 8.500 tỷ đồng (chiếm 10,4%).

Trong tháng, các tổ chức phát hành có trái phiếu được giao dịch nhiều nhất là: Ngân hàng TMCP HDBank (3,275 tỷ đồng), Công ty TNHH Phát triển kinh doanh xây dựng 3 (3.127 tỷ đồng) và NH TMCP Sài Gòn - Hà Nội (1.958 tỷ đồng).

Hoạt động giao dịch trên thị trường thứ cấp cũng sôi động hơn kể từ khi sàn giao dịch trái phiếu riêng lẻ được triển khai vào tháng 7/2023.

Theo Vis Rating, thị trường trái phiếu doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu có sự phục hồi rõ rệt sau hai năm tăng trưởng chậm kèm theo tâm lý kém lạc quan của thị trường. Những thay đổi về các quy định trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang giúp định hình hành vi của các bên tham gia, hoàn thiện cấu trúc thị trường và thúc đẩy sự hồi phục của các đợt phát hành mới.

Kể từ sau giai đoạn khủng hoảng về thanh khoản và chậm trả gốc lãi tăng mạnh từ tháng 9/2022 - 6/2023, tâm lý thị trường tích cực hơn, chủ yếu nhờ các nghị định liên quan đến hoạt động giải quyết nợ xấu. Từ tháng 3/2023, hơn 200 trái phiếu đã thực hiện kéo dài ngày đáo hạn, phần lớn gia hạn thêm khoảng 22 tháng, sau khi đạt được thỏa thuận với nhà đầu tư theo Nghị định 08/2023/NĐ-CP.

Nhiều tổ chức phát hành có mức vay nợ cao và sức khỏe tài chính yếu, gồm cả những doanh nghiệp mới thành lập mà không có hoạt động kinh doanh cốt lõi và dòng tiền kinh doanh hạn chế, liên quan đến các Dự án bất động sản, đã tránh được tình trạng chậm trả nhờ nghị định này.

Với tỷ lệ chậm trả trái phiếu giảm và tỷ lệ thu hồi chậm trả đang tăng lên, các tổ chức phát hành và nhà đầu tư đã lạc quan hơn và đang chủ động thích ứng với yêu cầu phát hành chặt chẽ hơn.

T.L

Nguồn Đầu Tư: https://baodautu.vn/cho-vay-mua-nha-phuc-hoi-cham-se-tiep-tuc-thanh-tra-thi-truong-vang-d227332.html