Đánh giá Yamaha BWS đời cũ - cá tính và không dành cho số đông
Chiếc Yamaha BWS vẫn nổi bật trên đường phố sau hơn 6 năm sử dụng.
Tại các thị trường khác nhau, yêu cầu về mẫu xe tay ga cũng khác nhau. Đa phần đều ưa chuộng các mẫu tay ga có kiểu dáng cá tính, thiết kế thể thao, tiêu biểu như Thái Lan, Malaysia hay Đài Loan. Trong khi đó, các mẫu tay ga tại Việt Nam hướng đến số đông với thiết kế trung tính, phổ thông. Đây lại là điều gây nhàm chán đối với những khách hàng muốn một mẫu tay ga cá tính, có chất riêng.
Do đó, nhóm khách hàng này thường tìm đến các mẫu xe nhập khẩu như Honda Vario, Zoomer X, Scoopy hay Yamaha Fino. Những mẫu xe nhập khẩu trên có giá trên 40 triệu đồng, thấp nhất là Scoopy cũng khoảng 38 triệu đồng. Nếu muốn một mẫu xe dưới 35 triệu đồng, Yamaha BWS đã qua sử dụng là một lựa chọn sáng giá.
Chiếc BWS trong bài được đăng ký lần đầu vào năm 2014 và đã trải qua hơn 13.000 km sử dụng.
Ngoại hình thể thao, gai góc nhưng không được lòng số đông
Từ khi có mặt tại Việt Nam vào năm 2009, Yamaha BWS đã gây ấn tượng bởi kiểu dáng độc đáo. Hiện tại, BWS vẫn nổi bật giữa hàng chục mẫu xe tay ga tại Việt Nam. Ở thời điểm ra mắt, các mẫu tay ga nhập khẩu chưa đa dạng như hiện nay, và BWS gần như là mẫu tay ga nổi bật nhất tại Việt Nam.
BWS có kiểu dáng không quá cầu kỳ. Yamaha làm nổi bật từng mảng thiết kế của xe với các điểm nhấn riêng. Ở phía trước là hệ thống đèn chiếu xa và đèn chiếu gần hình tròn được tách riêng, đặt dọc. Phần khung lộ ra ngoài là đặc điểm ở 2 bên xe. Chiếm trọn không gian đuôi xe là đèn hậu cũng là 2 hình tròn nhưng được đặt ngang.
Với thiên hướng off-road nhẹ, xe được tối giản dàn nhựa, đèn trước/sau đều có khung bảo vệ, bộ lốp có gai sâu hơn và có ốp nhựa bảo vệ tay lái. Theo chia sẻ của chủ xe, anh đã ấn tượng với thiết kế của BWS ngay từ những ngày đầu xe có mặt tại Việt Nam. Mức giá hơn 60 triệu đồng của xe đã ngăn cản anh đến với mẫu tay ga cá tính này.
Nếu đánh giá khách quan, thiết kế của BWS khó tiếp cận với người tiêu dùng Việt. Như đã nói, thị trường xe Việt là vùng đất của những mẫu xe trung tính, thiết kế không cần nổi bật nhưng phải dễ nhìn. Do đó, BWS là một "kẻ ngoại lai" đúng nghĩa khi về Việt Nam.
Yamaha BWS có kích thước dài x rộng x cao lần lượt là 1.910 x 765 x 1.110 (mm), chiều dài cơ sở 1.290 mm và chiều cao yên 780 mm. So với thế hệ hiện tại, BWS thế hệ đầu tiên thấp hơn 15 mm và trục cơ sở ngắn hơn 15 mm. Với các thông số này, BWS không phải là mẫu tay ga nhỏ nhắn cho chị em phụ nữ. Yên xe của mẫu tay ga 125 cc này cao hơn cả Vario 150 (769 mm).
Sau 6 năm sử dụng, ngoại hình chiếc BWS này còn khá mới, chưa xuất hiện dấu hiệu xuống cấp. Dàn nhựa bên ngoài vẫn có cứng cáp, nước sơn còn đậm màu. Các chi tiết nhựa nhám và khung xe còn mới. Chỉ 2 chi tiết trên xe cho thấy sự bào mòn của thời gian là cổ ổng xả và một phần khung xe bên trái. Tình trạng gần như mới của xe cũng dễ hiểu vì sau 6 năm, xe chỉ mới lăn bánh hơn 13.000 km - chưa bằng một năm sử dụng của tôi. Mỗi năm, chiếc xe máy của tôi phải di chuyển khoảng 2.000 km.
Điểm trừ ở kiểu dáng của BWS là khoảng để chân phía trước khá hẹp. Thông thường, phần lớn các mẫu tay ga có khoảng để chân rộng, nhất là đối với chiếc xe có yên cao đến 780 mm như BWS. Khi yên xe càng cao, sàn để chân càng rộng do trục cơ sở được kéo dài nhằm cân bằng lại trọng tâm. Honda Scoopy có khoảng để chân khá thoải mái dù yên xe chỉ cao 745 mm. Việc BWS có khoảng để chân hẹp là điều khá khó hiểu.
Trang bị đủ dùng, thực dụng
Tương tự dàn nhựa, các trang bị trên BWS vẫn còn nguyên bản và trong tình trạng không quá cũ. Ốp đèn phía trước vẫn còn trong, chưa có dấu hiệu bị ố. Đèn pha halogen của xe cho ánh sáng kém nên chủ xe đã chuyển sang đèn LED, đèn chiếu gần được giữ nguyên bản. Cụm đèn hậu và các đèn báo rẽ vẫn hoạt động tốt.
Là mẫu xe ghi-đông trần, BWS có đồng hồ đặt rời. Bảng đồng hồ có bố cục khá trực quan với phần báo tốc độ to nhất được đặt ở giữa. Hai bên là đồng hồ nhiên liệu và cụm đèn báo chức năng. Là một trong những bộ phận tiếp xúc với nắng nhiều nhất, phần nhựa của đồng hồ có dấu hiệu xuống màu nhưng không ảnh hưởng đến hoạt động.
Là mẫu xe của hơn 10 năm về trước, không lạ khi BWS sử dụng hệ thống khóa cơ tích hợp mở cốp. Điểm đặc biệt là chìa khóa của BWS là loại hạn chế gãy với cơ cấu khớp nối ở giữa.
Bình xăng của BWS đời này đặt ở phần trước của yên xe nhằm mở rộng không gian cốp. Nắp bình xăng được đặt ở đầu yên xe giúp người lái không phải xuống xe và mở yên để đổ xăng như thông thường. Tuy nhiên, thiết kế này khá bất tiện với phái nữ.
Phần đệm của yên xe khá dày và êm ái. Dưới yên là phần cốp khá rộng, có thể để một mũ 3/4 và một vài vật dụng khác.
Người ngồi sau không phải là ưu tiên của BWS với không gian khá nhỏ và chỗ để chân khó chịu.
Hệ thống treo trên xe gồm giảm xóc ống lồng ở phía trước và giảm xóc lò xo đôi phía sau. Theo cảm nhận của tôi, giảm xóc của xe còn khá tốt. Xe không bị quá sốc khi qua gờ giảm tốc và có độ êm ái nhất định. Khi chở thêm người phía sau, giảm xóc của BWS còn đầm chắc hơn.
Động cơ không nổi bật, ngốn xăng
Yamaha BWS sử dụng động cơ 125 cc, làm mát bằng gió, cho công suất 11 mã lực. Trải nghiệm thực tế thì động cơ của BWS đời này không nhanh nhạy như thế hệ động cơ 125 cc hiện tại. Nước ga đầu có độ trễ lớn, dễ gây nguy hiểm cho người lần đầu chạy mẫu xe này.
Khi vặn ga nhẹ, xe chỉ gầm gừ chứ chưa di chuyển nhưng chỉ cần nhích ga thêm đôi chút thì xe sẽ chồm mạnh về trước. Một người chơi BWS lâu năm cho tôi biết là các mẫu xe tại thị trường Đài Loan đều có yêu cầu nước ga đầu như vậy nhằm đề phòng trường hợp "cướp ga".
Khi được chủ xe thay bộ ly hợp mới, chiếc BWS trở nên lanh lợi hơn khi di chuyển trong phố. Trên hành trình TP.HCM - Cần Thơ, chiếc tay ga 6 năm tuổi không có dấu hiệu mệt mỏi. Khi chở 2 người, xe vận hành ổn định trong dải vận tốc 40-80 km/h.
Ở thời điểm chủ xe mua chiếc BWS này, hầu hết xe tay ga tại Việt Nam đều có động cơ phun xăng điện tử. BWS vẫn sử dụng bộ chế hòa khí (hay còn gọi là xăng cơ). Rõ ràng, đây là điểm thất thế của BWS khi tiết kiệm nhiên liệu là một trong những tiêu chí quan trọng nhất của người Việt khi mua xe.
Qua 2 ngày trải nghiệm, mẫu tay ga này tiêu tốn khoảng 3,5-4 lít cho 100 km. Đây là một con số đáng suy ngẫm với phần lớn người tiêu dùng Việt. Tất nhiên đối với những người yêu thích kiểu dáng của BWS, hao xăng không phải là vấn đề lớn.
Sau hơn 10 năm, BWS vẫn không là mẫu xe cho số đông
Ở năm 2009, Yamaha BWS có giá 60 triệu đồng. Các yếu tố quyết định sự thành công của một mẫu xe tại Việt Nam là thiết kế bắt mắt, giá rẻ, tiện lợi, tiết kiệm xăng lại không có trên BWS. Do đó, mẫu xe này mất hút ở Việt Nam sau khoảng 4-5 năm.
Đối với người thích thiết kế cực đoan, BWS là mẫu xe đáng để săn lùng. Hiện tại, không nhiều mẫu xe tương tự BWS được phân phối tại Việt Nam. Phần lớn đều có giá hơn 40 triệu đồng do là xe nhập khẩu. Do đó, Yamaha BWS đời cũ vẫn được săn đón vì giá dễ thở (25-35 triệu đồng), thiết kế cá tính và ít bị "đụng hàng".