Đẩy mạnh phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số
Phát biểu thảo luận vào chiều ngày 12/6 tại kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Bà Bố Thị Xuân Linh - Đại biểu Quốc hội tỉnh Bình Thuận đề cập về chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.
Đẩy mạnh phát triển vùng đồng bà
Theo đại biểu Bố Thị Xuân Linh, từ năm 2016 đến nay, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 41 văn bản đề cập đến chính sách hỗ trợ, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó có 15 đề án, chính sách trực tiếp.
Lũy kế đến nay còn 118 văn bản, có 54 đề án, chính sách còn hiệu lực. Đặc biệt, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 88 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 và giao nhiệm vụ cho Chính phủ “Xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030, trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 9 này.
Chính nhờ vậy, ở mức độ khác nhau, tình hình kinh tế - xã hội, đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong cả nước ngày càng phát triển và cải thiện.
Tuy nhiên, do xuất phát điểm thấp, vị trí địa lý, địa hình, điều kiện sản xuất, khí hậu khắc nghiệt, phong tục tập quán… nên hiện nay đời sống vật chất, tinh thần, cơ sở hạ tầng, việc tiếp cận các dịch vụ cơ bản nhất của nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi ở nước ta vẫn còn khó khăn...còn chênh lệch khoảng cách với miền xuôi.
Vì vậy, rất cần thiết có 1 chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, giai đoạn 2021-2030 nhằm khắc phục hạn chế, thực hiện chính sách dân tộc và miền núi thời gian qua và là giải pháp quan trọng nhất để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết 88 của Quốc hội.
Tuy nhiên, Đại biểu Linh đề nghị Chính phủ nên phân định vùng dân tộc thiểu số và miền núi theo trình độ phát triển để tập trung đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho các địa bàn đặc biệt khó khăn, nhóm dân tộc có khó khăn đặc thù; rà soát các chính sách không còn phù hợp trong giai đoạn hiện nay để ban hành chính sách mới.
Đồng thời, cần áp dụng một số cơ chế đặc thù để thực hiện các dự án của chương trình và đẩy mạnh phân cấp, trao quyền và nâng cao vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương; lồng ghép, thực hiện chính sách bình đẳng giới trong triển khai thực hiện chương trình.
Phải công khai, dân chủ, phát huy tinh thần vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số, tránh tư tưởng ỷ lại, trông chờ sự hỗ trợ của Nhà nước, không chủ động vươn lên của đồng bào; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc để theo dõi, giám sát, nhất là vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội đảm bảo thực hiện thắng lợi các mục tiêu của chương trình.
Tập trung đầu tư xây dựng các trạm y tế xã (tập trung cho các xã ở vùng sâu, vùng xa, biên giới) có đủ điều kiện khám, chữa bệnh, thực hiện được các dịch vụ kỹ thuật cơ bản; có chính sách phù hợp đối với đội ngũ nhân viên y tế tại các xã, thôn bản vùng đặc biệt khó khăn; có các giải pháp giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống; phòng, chống xâm hại trẻ em. Thực hiện chính sách dân số, kiểm soát tỷ lệ sinh, nâng cao chất lượng dân số ở một số vùng đồng bào DTTS.
Mặc khác để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của chương trình, Chính phủ có giải pháp thật cụ thể đảm bảo nguồn vốn kịp thời và đồng bộ theo hướng đa dạng hóa nguồn vốn, trong đó vốn nhà nước là quan trọng và có ý nghĩa quyết định, đẩy mạnh thu hút các nguồn lực ngoài ngân sách, khuyến khích sự tham gia, đóng góp của người dân để thực hiện các mục tiêu của chương trình theo nguyên tắc “Nhà nước và Nhân dân cùng làm”.
MH