Đế chế Ottoman - Từ không chốn dung thân đến bá chủ thế giới
Đế chế Ottoman đã gây ảnh hưởng trên toàn bộ khu vực châu Á – Âu – Phi, tạo ra một diện mạo chính trị mới của thế giới kể từ cuối thế kỷ 13 đến thế kỷ 17.
Đế chế Ottoman theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ nghĩa là "Đế chế Ottoman Tối cao" tồn tại suốt 624 năm (1299 – 1923), là một trong những đế chế lớn nhất và tồn tại lâu nhất trong lịch sử nhân loại. Cũng như các đế chế khác, muốn thành công thì Ottoman đã tuân thủ những giá trị cốt lõi.
Bất kì một đế chế nào, nếu muốn duy trì sự phát triển bền vững cần tạo dựng cho mình không chỉ sức mạnh quân sự mà cần một nền tảng tri thức vững chắc.
Trong khi các đế chế khác nhanh chóng lụi tàn vì không cai quản được một diện tích lãnh thổ quá rộng lớn, đa dạng sắc tộc, văn hóa,… thì Ottoman giữ được sự cường thịnh bền vững trong hàng trăm năm. Ottoman có những biện pháp cai trị đất nước rất hữu hiệu.
Đế chế này học hỏi và hợp nhất chính sách trị dân của hoàng đế La Mã với chính sách trị dân của hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ. Nhà nước theo chính thể quân chủ chuyên chế, các Sultan (nhà vua) có quyền lực tối cao. Nhưng triều đình cũng tạo ra một thể chế pháp lý millet – khu vực tự trị, các dân tộc và tôn giáo có sự độc lập đáng kể dưới quyền kiểm soát của trung ương. Các thái tử và hoàng thân cũng được chia khu vực để cai trị.
Dưới sự cai trị của các Sultan, nhiều thư viện, trường học đã được xây dựng. Các quan viên được huấn luyện bài bản để đáp ứng nhu cầu quản lý hành chính do lãnh thổ đế quốc càng lúc càng mở rộng. Thanh thiếu niên ở các giáo khu Thiên Chúa giáo, tù binh 10-15 tuổi cũng bắt buộc phải đến trường học. Chương trình học kéo dài 10-12 năm, bao gồm các môn như ngữ văn, văn học, nhạc, pháp luật, thần học, quân sự, toán, triết học Hồi giáo, quản lý học… Những học sinh nào không qua được các kỳ kiểm tra sẽ bị đuổi học ngay.
Để nâng cao chất lượng giáo dục, các Sultan cho mời nhiều học giả nổi tiếng trong giới Hồi giáo cũng như tại châu Âu thời đó về giảng dạy. Trường học và các khu thực hành cũng được đầu tư phát triển liên tục. Các Sultan cũng thường xuyên đến các trường học để quan sát và đích thân truyền đạt kiến thức cho học sinh. Chính sách giáo dục triệt để đã nâng cao nhận thức dân tộc, tạo nên một khối sức mạnh thống nhất, đồng thời thúc đẩy sự phát triển cực thịnh, bền vững của đế chế Ottoman.
Bên cạnh đó, chính sách tự trị nhưng vẫn hợp nhất trong một chính thể quân chủ giúp cho Ottoman có thể dễ dàng cai trị lãnh thổ rộng lớn, mọi nguồn lực quân sự, tài nguyên… vẫn quy về một mối tạo nên sự cường thịnh cho đế chế Ottoman.
Phần lớn người Ottoman theo đạo Hồi giáo, nhưng nhà nước cho phép giáo hội Thiên Chúa, giáo hội Do Thái giáo và giáo hội Hy Lạp được hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật của đế quốc Ottoman. Luật Ottoman cũng chú ý đến việc cải thiện đời sống và địa vị của những rayah (người không theo đạo Hồi). Họ được đối xử tốt hơn so với các đế chế cũ, điều này thu hút nhiều nông nô ở châu Âu sang Ottoman sống để được làm rayah.
Người Thổ đã hợp nhất một loạt các tôn giáo và dân tộc vào đế quốc Ottoman của mình, nên họ có thể giữ cho lãnh thổ gần như luôn hòa bình, ổn định suốt hơn 600 năm.
Đế chế Ottoman lúc mới hình thành chỉ là một tiểu vương quốc của một bộ lạc theo đạo Hồi, tồn tại trong giai đoạn liên tiếp diễn ra các cuộc thánh chiến, tranh giành sự ảnh hưởng giữa các tôn giáo. Nhưng dần dần, người Ottoman đã đồng hóa các dân tộc xung quanh, tạo nên một đế chế mới có sức ảnh hưởng mạnh mẽ cho đến ngày nay.
Theo truyền thuyết, một đêm nọ Osman I – vị Sultan (nhà vua) đầu tiên của vương quốc Ottoman mơ thấy một vầng trăng lưỡi liềm đi qua bầu trời từ Đông sang Tây chiếu sáng khắp trần gian. Osman I tin rằng đây là điềm lành báo rằng đế quốc do ông tạo dựng sẽ trở thành một đế chế vĩ đại. Những người Ottoman cũng cùng một niềm tin Osman I là người được lựa chọn và có đầy năng lực để chinh phục một đế quốc đã được báo trước.
Osman I liền chọn trăng lưỡi liềm làm biểu tượng và quốc kỳ của đế quốc Ottoman, đồng thời phát động những cuộc chinh phạt khắp các châu lục. Người Ottoman với niềm tin vào người được chọn, đã hợp thành một khối thống nhất, cùng một đức tin, cùng một sứ mạng. Họ trở thành đội quân có sức mạnh không thể bị suy suyển, kiên cường và bách chiến bách thắng trong chiến tranh. Chỉ trong 10 năm, tiểu vương quốc Ottoman vừa hình thành đã trở thành bá chủ châu Á, Âu, Phi.
Các đời Sultan của đế chế Ottoman luôn giữ sứ mạng thống nhất các quốc gia, dân tộc khác về cùng một tôn giáo. Mục tiêu của các Sultan đa phần là thành trì quan trọng của các tôn giáo khác. Dù gặp nhiều thất bại do sự chênh lệch về lực lượng chiến đấu, nhưng người Ottoman chưa từng bỏ cuộc. Bốn đời Sultan Ottoman dẫn quân đánh quân Ba Tư, hơn 1 thế kỷ đánh chiếm La Mã, là những biểu hiện rõ nét của lòng quyết tâm mở rộng lãnh thổ, đồng thời truyền bá đạo Hồi ra khắp thế giới.
Sự bành trướng của đế chế Ottoman đi liền với quá trình đồng hóa các dân tộc khác và sự gia tăng của các tín đồ Hồi giáo. Một số Sultan được xưng tôn là minh chủ tối cao của thế giới Hồi giáo, hoặc Padishah-i-Islam tức "Hoàng đế của Hồi giáo".
Ottoman trở thành đế chế của Đức Tin. Dưới thời Ottoman, đạo Hồi phát triển mạnh mẽ, hệ tư tưởng Hồi Giáo – Arab chi phối và ảnh hưởng lên cả phương Đông lẫn phương Tây. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của đế chế Ottoman lại không phụ thuộc vào sức mạnh quân sự mà nhờ vào chính sách khuyến khích tinh thần yêu thương, bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo.
Tinh thần yêu thương gắn kết dân tộc Ottoman, thu hút các dân tộc khác chấp nhận sáp nhập và trở thành một phần của đế chế Ottoman. Tinh thần yêu thương cũng đã giữ cho Ottoman hòa bình, phát triển bền vững trong hơn 600 năm, bất chấp sự khác biệt văn hóa, sắc tộc, ngôn ngữ, bất chấp cho các đế chế khác đang trên đường suy tàn.
Cho đến nay, trên vùng đất mà Ottoman từng cai trị, nhiều quốc gia vẫn sử dụng vầng trăng lưỡi liềm làm biểu tượng, bởi đức tin duy nhất từ thời khởi sinh đế chế Ottoman đã, đang và sẽ trường tồn.
(Đón đọc nội dung tiếp theo: Đế chế Ottoman - Từ không chốn dung thân đến bá chủ thế giới – Kỳ II)