Độc đáo ngôi chùa được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt
Đó là chùa Keo, tọa lạc tại làng Keo, nay là xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư (Thái Bình). Cùng các đồng nghiệp Báo Thái Bình chiêm bái ngôi chùa cổ gần 400 tuổi, chúng tôi cảm nhận nét độc đáo, những giá trị của Thần Quang tự xứng danh được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.
Một góc chùa Keo, xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư (Thái Bình).
Thong dong thả bước qua lối đi giữa 2 hồ nước, chúng tôi bước vào sân chùa thanh tịnh. Với chất giọng trầm ấm, hướng dẫn viên Nguyễn Thị Phương Duyên lần lượt giới thiệu về ngôi chùa phức hợp kiến trúc đa dạng nhất, và cũng được xếp vào hàng quy mô nhất trong các ngôi chùa cổ ở Việt Nam.
Nhìn bao quát, toàn bộ ngôi chùa được làm bằng gỗ lim và không hề sử dụng đinh tán, chỉ dùng mộng gỗ ghép lại với nhau nhưng kết cấu toàn bộ kiến trúc vẫn chắc chắn qua thời gian. Các vì kèo, cột được chạm khắc rất tinh xảo. Theo giới thiệu, chùa Keo xưa có tên là Nghiêm Quang tự được dựng tại làng Keo năm Tân Sửu (1061), đời Lý Thánh Tông. Sau đó, đến đời Lý Anh Tông (1167) được đổi tên là chùa Thần Quang. Năm Tân Hợi (1611) xảy ra trận lũ lớn, chùa bị trôi dạt. Dân làng Keo cũ phải dời đi 2 nơi, một về tả ngạn sông Hồng, huyện Vũ Thư và một về hữu ngạn (tỉnh Nam Định). Cũng vì vậy, làng Keo được chia thành 2 làng và đều dựng lại ngôi chùa, gọi theo tên Nôm là chùa Keo.
Chùa Keo Thái Bình được dựng lại năm 1632 với tên chữ Thần Quang tự và giữ khá nguyên vẹn cho đến ngày nay. Chùa do quận công Hoàng Nhân Dũng (một vị quan lớn thời Lê - Trịnh) đứng ra khởi công. Chúa Trịnh chỉ cấp cho 100 cây gỗ lim, còn lại đều do Nhân dân tự đóng góp. Ông phải ròng rã 19 năm mới thuê được 42 hiệp thợ để khởi công và sau 28 tháng, đến tháng 11/1632 hoàn thành. Ngôi tự hiện nay có tổng diện tích 41.561,9 m2. Quay mặt hướng chính Nam, chùa được dựng theo kiến trúc đặc trưng "nội nhị công, ngoại nhất quốc” với 16 tòa, 126 gian. Trong đó 12 tòa, 102 gian chính, gồm: tam quan ngoại (3 gian); tam quan nội (3 gian); chùa Phật (3 tòa): tòa ông Hộ (7 gian), tòa ống muống (3 gian), tòa tam bảo (3 gian); đền thánh (4 tòa): tòa giá roi (5 gian), tòa thiêu hương (5 gian), tòa hậu cung (3 gian), tòa thượng điện (3 gian); gác chuông (1 gian); hành lang đông (33 gian); hành lang tây (33 gian). Trong khuôn viên có 3 hồ lớn. Điểm đầu là tam quan ngoại, điểm cuối là gác chuông, hai điểm này nằm trên một đường thẳng gọi là đường thần đạo.
Điểm đặc biệt trong kiến trúc, mỹ thuật của ngôi chùa có thể kể đến các kiến trúc đao loan uốn cong chạm trổ hình rồng, phượng, cá... vô cùng công phu, tỉ mỉ. Những pho tượng Phật nhiều hình dạng được chạm khắc từ thế kỷ XVII, XVIII; bộ chuông đồng; bộ cửa gỗ ở tam quan ngoại chạm đôi rồng và nhiều rồng con đang chầu nguyệt được xem là kiệt tác chạm khắc thế kỷ XVII. Đặc biệt, gác chuông 3 tầng ở điểm cuối cao hơn 11 m, bộ khung được kết cấu bởi gần 100 con sơn chồng lên nhau, được gọi là 100 đàn đầu voi. Tất cả đều liên kết bằng mộng gỗ nâng đỡ 12 mái ngói cong uy nghi. Bên trong gác chuông có khánh đá, nhấc nhẹ tay gõ đã vang vọng thinh không. Đối với chuông, khi gõ âm vang cả một vùng.
Chùa ngoài thờ Phật, còn thờ thánh Dương Không Lộ - quốc sư thời nhà Lý, người con của làng Keo có công dựng chùa Keo cũ và hướng dẫn giúp dân làm ăn. Hàng năm, tại chùa diễn ra 2 lễ hội: Lễ hội mùa xuân với tính chất hội làng truyền thống và lễ hội mùa thu (hội chính diễn ra vào trung tuần tháng 8 âm lịch), với những lễ nghi tôn giáo như lễ tế mở cửa đền, rước kiệu thánh... Trong lễ hội, nhiều lễ vật, hệ thống đạo cụ, dụng cụ được sử dụng như kiệu, thuyền rồng, thuyền cò, bát bửu, chấp kích, trải… và nhiều trò chơi dân gian truyền thống hấp dẫn (thổi cơm thi, bịt mắt bắt vịt, leo cầu ngô…). Với sự cuốn hút của lễ hội, dân gian truyền câu ca "Dù cho cha đánh mẹ treo/ Em không bỏ hội chùa Keo hôm rằm”. Đến chùa, dân bản địa và du khách gửi gắm khát vọng về cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Với những giá trị về lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật, văn hóa, tâm linh, chùa Keo đã được xếp hạng di tích quốc gia năm 1962 và di tích quốc gia đặc biệt năm 2012.