Đối chiếu một vài điểm trong Milindapañha Pāli và kinh Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ

NSGN - Nhiều học giả nghĩ rằng Milindapañha Pāli và kinh Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ xuất phát từ cùng một nguồn vì chúng cho thấy có nhiều điểm chung.

V. Trenchner đã chỉ ra nơi bản chuyển tự bản văn Pāli của ông vào những năm 1860 rằng, Milindapañha nguyên thủy được viết bằng Sanskrit vì nó bắt đầu bằng những từ “Taṃ yathā nusuyate”1 (Nó đã được lưu truyền như vậy) thay vì cách sử dụng thông thường của thể thức Pāli “Evaṃ me sutaṃ” (Tôi đã nghe như vậy)2. Điều này được chứng thực bởi sự có mặt các bản dịch Hán ngữ của bản văn này mà chúng rõ ràng có cùng một nguồn gốc. Ở đây chúng tôi xem xét một vài điểm tương đồng giữa Milindapañha Pāli và kinh Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ.

Hòa thượng Thích Minh Châu đã chỉ ra một số điểm tương đồng để cho thấy rằng cả hai phiên bản đều xuất phát từ cùng một nguồn và có một cơ sở chung mà nó là bản gốc của bản Hán ngữ và Milindapañha Pāli. Ngoại trừ bốn chương cuối của Milindapañha Pāli không có trong bản Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ, các chương còn lại đều tương tự nhau với một số thêm bớt chỗ này chỗ kia. Hầu hết các đoạn hội thoại đều giống nhau và cùng một chủ đề, nhưng có một số khác biệt không quan trọng nằm rải rác đây đó.

Theo phần Ngoại thuyết (Bāhirakathā) của Milindapañha Pāli, cả vị Sa-di và Tỳ-kheo đều có những phát nguyện và về sau vị Sa-di đã trở thành vua của xứ Sāgala ở Ấn Độ, tên là Milinda3, còn vị Tỷ-kheo đã trở thành Tỳ-kheo Nāgasena4. Theo phiên bản Hán ngữ, vị Sa-di ở kiếp trước là một con voi chúa và sau đó sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn. Vào lúc bấy giờ vị Tỳ-kheo là một ẩn sĩ Bà-la-môn, là bạn của một Bà-la-môn khác. Cả hai có những phát nguyện và theo thệ nguyện của họ, người thứ nhất đã sinh làm Na Tiên5 và người thứ hai là Mi Lan6.

Theo Milindapāñha Pāli, Nāgasena sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn; ông tinh thông ba bộ Vệ-đà và có kiến thức sâu rộng về Bà-la-môn giáo nhưng không hề biết đến Chánh pháp và các Tỳ-kheo7.

Theo kinh Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ, voi chúa sau này được sinh làm người. Ông sinh ra trong một gia đình Bà-la-môn và không hề biết đến Đức Phật hay Phật pháp, cũng không gặp bất kỳ Sa-môn (Sramanạ)8 nào. Vì vậy, ông rời bỏ gia đình, đi vào rừng sâu và học những giáo thuyết ngoại đạo.

Theo Milindapañha Pāli, Trưởng lão Assagutta cùng với toàn thể Tăng chúng đi gặp Thiên chủ Sakka để thỉnh cầu Thiên tử Mahāsena sinh vào thế giới loài người nhưng Đại đức Rohana không có mặt ở đó9.

Trưởng lão Assagutta sau đó đã giao cho Rohana một nhiệm vụ như một hình phạt là phải đến nhà của cha Nāgasena (Bà-la-môn Sonuttara) để khất thực trong bảy năm 10 tháng, còn đồng tử Nāgasana sau đó đã xuất gia làm Sa-di.

Trong kinh Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ, Na-tiên có một người chú tên là Lâu Hán, là một vị A-la-hán, và vị này đã nhận Na-tiên xuất gia và truyền mười giới. Vị Lâu Hán này có thể được đồng nhất với Đại đức Rohana10.

Milindapañha Pāli đề cập rằng Trưởng lão Assagutta cư trú tại ẩn thất Vaṭtạ̄nīya nơi Đại đức Nāgasena đã trải qua ba tháng an cư mùa mưa.

Theo phiên bản Hán ngữ, vào thời điểm đó có một ngôi chùa Phật giáo tên là Hòa Thiên, ở đó có năm trăm vị tu sĩ đều đắc quả A-la-hán. Trong số đó, vị tu sĩ A-la-hán đứng đầu là A Bi Viết. Lúc bấy giờ Na-tiên 20 tuổi và đến đó để thọ Cụ túc giới. Ở đây chùa Vaṭtạ̄nīya có thể được coi là chùa Hoa Thiên và A-la-hán Assagutta có thể được xem là A-la-hán A Bi Viết.

Trong Milindapañha Pāli, Đại đức Nāgasena thuyết giảng Vi diệu pháp (Abhidhamma) cho một nữ đệ tử (Mahā upāsikā) và khi kết thúc bài giảng, cả hai người đều chứng quả Dự lưu (sotāpanna). Khi thấy cả hai người đều chứng quả Dự lưu, Trưởng lão Assagutta vô cùng vui mừng và nói rằng “Nāgasena đã bắn một mũi tên trúng hai đích”11.

Trong bản Hán ngữ, Tỳ-kheo Na-tiên đã thuyết giảng giáo pháp cho một cư sĩ và sau khi ông thuyết pháp, cả hai đều chứng quả Dự lưu, và Trưởng lão Assagutta đã tán dương Nāgasena rằng “Giống như một người bắn một mũi tên trúng hai đích”12.

Theo Milindapañha Pāli, Nāgasena được gửi đến Trưởng lão Dharmarakkhita đang sống tại chùa Asokārama ở Pātạliputta (Patnā hiện tại). Ở đó, Trưởng lão Dharmarakkhita đã khiển trách ông về việc ông không chứng quả A-la-hán. Và đúng ngày đó, vào ban đêm, ông đã chứng đắc quả vị A-la-hán. Còn kinh Na-tiên Tỳ-kheo Hán ngữ đề cập rằng Na-tiên đã bị trục xuất khỏi Tăng đoàn vì vi phạm thỏa thuận với thầy của mình và sau đó ông thiền định và trở thành một A-la-hán.

Trong Milindapañha Pāli có đề cập rằng sau khi đắc quả A-la-hán, Đại đức Nāgasena đi đến thành phố Sāgala ở Sindu và ở đó đã gặp vua Milinda tại chùa Sankheyya; bản Hán ngữ ghi rằng Tỳ-kheo Na-tiên đến nước Xá-kiệt và trú tại chùa San-khê-đa để gặp vua Mi Lan.

________________________________________

(1) Milindapañho, Balangoda Ānanda Metteyya Mahāthera, H.K.D. Chandrasena Printed, Colombo,1962, tr.1.

(2) Bhikkhu Pesala, The Debate of King Milinda, United Kingdom, 2001, tr.9.

(3) Milindapañho, Balangoda Ānanda Metteyya Mahāthera, H.K.D. Chandrasena Printed, Colombo, 1962, tr.3.

(4) Ibid., tr.6.

(5) Nagasena Bhiksu Sūtra translation, (那先比丘經中翻英者:廣興法師), vol.1, Venerable Guang Xing, Shyh Hyah International Co., LTD. Taiwan 2008, tr.18.

(6) Ibid.

(7) Milindapañho, Balangoda Ānanda Metteyya Mahāthera, H.K.D. Chandrasena Printed, Colombo,1962, tr.8.

(8) Nagasena Bhiksu Sūtra translation, (那先比丘經中翻英者: 廣興法師), vol.1, Venerable Guang Xing, Shyh Hyah International Co., LTD. Taiwan 2008, tr.15.

(9) Milindapañho, Balangoda Ānanda Metteyya Mahāthera, H.K.D. Chandrasena Printed, Colombo, 1962, tr.4.

(10) Ibid., tr.20.

(11) Athako sā Mahāupāsikā āyasmantaṃ Nāgasenaṃ Etadavoca: “Mahallikā kho’haṃ tāta Nāgasena. Gambhīrāya Dhammakthāya mayhaṃ anumodanaṃ karohī” ti Atha kho āyasmā Nāgaseno tassa mahāupāsikāya Lokuttarāya suñnãtā-patịsamỵuttāya anumodanaṃ akāsi. Athakho mahāupāsikāya tasmimyẹva āsane virajaṃ vItamalaṃ dhammachakkhuṃ udapādi “yaṃkiñci samudaya dhammaṃ sabbaṃ taṃ nirodha dhammaṃti” Ayasmāpi kho Nāgaseno tassā mahāupāsikāya anumodanaṃ katvā attanā desita dhammaṃ paccavekkhanto vipassanaṃ ṭhapetvā tasmiṃ yeva āsane nisinno sotāpattiphale patiṭṭhāsi. Athako āyasmā Assagutto …” sādhu sādhu Nāgasena: ekena kaṇdạppahārena dve mahākāyā padālitā”ti .

(12) Nagasena Bhiksu Sūtra translation, (那先比丘經中翻英者:廣興法師), vol.1, Venerable Guang Xing, Shyh Hyah International Co., LTD. Taiwan, 2008, tr.33.

Hòa thượng Moragollagama Uparathana - Vô Ưu dịch (Nguồn: academia.edu) /Nguyệt san Giác Ngộ

Nguồn Giác ngộ: https://giacngo.vn/doi-chieu-mot-vai-diem-trong-milindapanha-pali-va-kinh-na-tien-ty-kheo-han-ngu-post73624.html