Dưới chân núi Mụ
Năm nay mùa đông đến muộn. Trời cứ nắng vàng mãi. Tôi trở đi trở lại vùng đất này chẳng nhớ đã bao nhiêu lần. Tôi và vài đồng nghiệp lặn lội từ một huyện xa để ra thành phố tỉnh lỵ lúc trời đã sẫm tối. Mặt trời lặn rồi nhưng cái quầng sáng hồng hào quyến rũ bí ẩn của nó vẫn hắt một cách tiếc nuối lên nền trời phía tây, đằng sau một ngọn núi tên là Mụ, núi Mụ.
Người dẫn đường là một nghệ sĩ, một nhà nghiên cứu. Ông nhìn qua cửa kính xe và nói: Đây là núi Mụ. Mụ tức Mẹ. Núi Mụ, là núi Mẹ. Hay là Mẹ của những ngọn núi? Nếu như nhìn ban ngày thì núi Mụ cao hẳn lên, vượt lên trên những dãy, những ngọn thoai thoải khác. Và dưới chân núi là những thửa ruộng bậc thang nối tiếp nhau. Núi rừng biếc xanh, ruộng đồng cũng biếc xanh. Còn bây giờ, núi Mụ chỉ là một khoảng tối được viền bằng thứ ánh sáng đẹp vào loại bậc nhất thiên hà.
Núi Mụ đứng ở giữa một vùng Mường. Xưa, cộng đồng người Mường ở Hòa Bình được chia làm bốn vùng: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động”. Núi Mụ ở Mường Vang, tức huyện Lạc Sơn bây giờ. Người Mường chiếm khoảng 90% dân số ở Mường Vang. Tức là đặt chân đến đâu tôi cũng có thể gặp một người Mường.
Tôi thường bị mê hoặc bởi văn hóa truyền thống của các tộc người. Ở đâu có người dân tộc thiểu số sinh sống là ở đấy tôi bị hút chặt vào. Và mỗi khi muốn tiếp cận một nền văn hóa dân tộc thiểu số, tôi thường bắt đầu bằng kiến trúc nhà ở, phong tục ma chay, cưới xin, tín ngưỡng, thói quen canh tác, nghề truyền thống…
Ở vùng Mường, cái văn hóa ấy không, hay là không còn, nằm ở bề nổi. Hoặc là có, nhưng rất ít. Những ngôi nhà sàn đang mất đi, thay vào đấy là nhà bê tông hoặc nhà sàn bằng... bê tông. Hơn thế, người ta còn vẽ vân gỗ lên những cọc, những sàn, những tường bê tông ấy. Nghe nói có người giàu lên chỉ nhờ vào mỗi một việc là đi khắp các bản làng để… vẽ gỗ lên bê tông. Người có nhà mới thấy vui, tôi thì chẳng liên quan gì, kỳ lạ thay, lại thấy trĩu nặng một nỗi gì giống như buồn phiền.
Một ít ngôi nhà còn được giữ lại bên cạnh ngôi nhà mới. Cột bằng gỗ xoan, sàn, vách bằng cây bương già, mái lợp cọ. Người ta giữ lại những ngôi nhà bé nhỏ, cũ kỹ, mục nát ấy để làm kho chứa lương thực, cất nông cụ, hoặc làm bếp, để tách bếp ra khỏi căn nhà mới. Tôi đứng nhìn những cái chân cột nhà sàn.
Khi xưa, để chống mối mọt người ta thường kê chân cột lên những hòn đá. Tôi từng ví đời người đàn bà miền núi giống như hòn đá kê chân cột nhà chồng. Đã về làm dâu, đến cái tên cũng mất. Mới lấy chồng thì theo tên chồng, có con thì theo tên con. Sống làm người nhà chồng, chết làm ma nhà chồng. Ở với mẹ đẻ lúc còn thơ bé, ở với mẹ chồng suốt cả cuộc đời.
Và suốt cái cuộc đời làm dâu ấy, luôn nhẫn nhịn như hòn đá dưới chân cột. Và dưới gầm sàn một căn nhà cũ cũ bé bé còn sót lại, tôi thấy người ta kê chân cột, những cái chân cột đã mục, bằng những cục… bê tông. Những hòn đá từ ngày dựng nhà rốt cuộc đã bỏ đi đâu?
Tôi cũng thích trang phục Mường. Trang phục của nam giới thường khá đơn điệu, và đôi khi hơi khó phân biệt. Nhưng trang phục của nữ giới thì khác. Chưa kể trong trang phục còn có trang phục thường ngày, trang phục lễ hội, trang phục cưới.
Trang phục nữ Mường nhìn bề ngoài chỉ có hai màu chủ đạo là đen và trắng, kể cả khăn vấn đầu. Nhưng lại có một bộ phận cực kỳ quan trọng, đó là cái cạp váy. Phụ nữ Mường mặc một chiếc váy cao tới tận ngực, dài chấm gót chân. Trong chiếc váy này thì riêng phần cạp dành để ôm trọn cơ thể từ trên ngực xuống đến eo lưng, tức là ôm trọn phần nữ tính nhất của một cô gái.
Trong cái cạp váy lại có đến ba phần, được gọi là “rang trên”, “rang dưới” và “cao”. Ba phần này được dệt ba lần, rồi nối lại. “Rang dưới” là phần quan trọng nhất, nó thường được dệt theo hình một số linh vật, phổ biến nhất là rồng. Để dệt váy áo, trong nhà người Mường phải có hai khung cửi. Một khung cửi thông thường và một khung cửi đặc biệt chỉ để dệt cạp váy.
Chưa hết, một chiếc cạp váy có thể được lưu truyền từ đời bà sang mẹ, sang cháu gái. Người ta có thể thay phần thân váy khi nó cũ, rách, nhưng riêng cạp váy thì được giữ lại.
Ở một số dân tộc ít người, sau khi dệt xong một miếng vải người ta mới trang trí. Có thể là thêu, có thể là vẽ sáp ong. Nhưng họa tiết trên cạp váy Mường lại được tạo ra từ khi dệt. Màu sắc cũng được tạo ra từ lúc đó. Điều đó đòi hỏi kỹ thuật dệt rất phức tạp, cầu kỳ, cẩn trọng. Thêu hỏng có thể dỡ ra thêu lại, dệt hỏng thì chỉ bỏ đi. Xưa, ở phiên chợ xứ Mường còn có người chuyên bán cạp váy. Cũng chẳng có nhiều, vì dệt mất công lắm. Giờ thì như nhiều tộc người khác, phụ nữ Mường cũng chỉ mặc trang phục truyền thống vào dịp lễ Tết mà thôi.
Có ý kiến cho rằng, nền văn hóa Đông Sơn đọng lại nhiều nhất, đậm nét nhất, chính ở dân tộc Mường. Tôi đến một nơi gọi là hang Xóm Trại ở huyện Lạc Sơn - tức là Mường Vang xưa kia. Đó là một di chỉ khảo cổ đặc biệt quan trọng trong quá trình tìm lại dấu vết của người Việt cổ cách đây 21.000 năm. Trong quá trình khai quật hang Xóm Trại, các nhà khảo cổ đã phát hiện các hạt quả. Những hạt quả ấy được hái trên những cây rất cao, phải đàn ông mới lấy được. Và lại tìm thấy rất nhiều vỏ ốc và dấu hiệu cho thấy đó là việc mà phụ nữ vẫn làm. Phát hiện này làm thay đổi quan niệm “đàn ông săn bắn, đàn bà hái lượm” vốn có trong nhiều tài liệu.
Trở lại với cái cạp váy của phụ nữ Mường, một số nhà nghiên cứu cho rằng trong số các hoa văn thường thấy có rất nhiều hoa văn trùng với hoa văn trên mặt trống đồng Đông Sơn. Tất nhiên, các họa tiết được dệt trên mặt vải không cho phép hình vẽ có đường cong mà chỉ là các đường thẳng có cắt góc, nhưng vẫn có thể nhìn thấy sự trùng lặp đến kỳ lạ giữa hai loại họa tiết, ở trên hai sản phẩm.
Người Mường có nhiều điểm tương đồng, gần gũi với người Kinh, đặc biệt là tiếng nói. Tiếng Mường có đến 70% giống tiếng Kinh. Ví dụ, tiếng Mường gọi cái váy là “cại wặl”, cái áo là “cại ạo”, cái mũ là “cại mu”, cái yếm là “cại yệm”… Nhưng từ trong sâu thẳm, rất sâu trong đời sống tinh thần, đặc biệt là tín ngưỡng, thì người Mường đã và đang lưu giữ những giá trị đặc biệt, không thể trộn lẫn với bất cứ dân tộc nào, và nó đầy bí ẩn.
Ví dụ như cái cạp váy của phụ nữ Mường cầu kỳ như thế, màu sắc như thế, khác biệt hẳn với toàn bộ trang phục, mà lại không hề được phô phang ra ngoài. Nó bó khít lấy cơ thể, nhưng lại được giấu ở bên trong chiếc áo cánh khoác ngoài. Đây là điều tôi chưa thể nào lý giải nổi. Cũng chưa thấy tài liệu nào lý giải. Nó chứa đựng thông điệp gì? Một quan niệm nào đó về cái đẹp, về giới, về đức hạnh… chăng?
Tôi đi tắt vào làng qua cánh đồng mùa đông buồn tẻ. Đường làng đầy phân trâu. Lâu rồi mới đi qua những ngôi làng mà nhà nào cũng còn có một vài con trâu. Lâu rồi chiều chiều mới nghe tiếng mõ trâu lóc cóc từ rừng về. Và lâu rồi mới thấy những nếp nhà bập bùng đỏ lửa.
Ngang qua một ngôi nhà, bạn tôi bảo đấy là nhà thầy cúng. Một ông thầy cúng có tiếng. Trong sân nhà ông ấy vẫn còn giữ cái sanh bằng đồng. Một cái sanh khổng lồ. Nó to tới mức có thể luộc một con trâu. Tôi hỏi, để luộc chín một con trâu thì mất bao lâu? Mọi người cười ồ. Rốt cuộc thì người ta vẫn phải mổ, cái gì ra cái nấy rồi mới luộc chứ nhỉ…
Tôi luôn sợ các ông thầy cúng. Ở làng tôi ngày xưa, người ta gọi ông thầy cúng trong các đám tang là ông Then. Nhà có người qua đời là phải đón bằng được ông Then về làm lễ cúng tiễn người chết về trời. Không có ông Then là người chết không đi được. Trước khi đón ông Then về, người nhà phải cử một người đàn ông đi cõng… bộ quần áo của ông Then về trước. Bộ quần áo ấy được gấp, gói lại, và được cõng trên lưng suốt chặng đường dài về nhà có đám, tuyệt đối không được dừng, nghỉ, đánh rơi.
Sợ, nhưng tôi vẫn muốn gặp ông thầy cúng có cái sanh luộc được cả một con trâu ấy một lần. Tôi tin rằng, nếu gặp ông ấy, may mắn ra, ông sẽ khai sáng cho tôi phần quan trọng nhất trong thế giới tâm hồn của người Mường.
Núi Mụ lùi lại sau lưng, chìm dần trong bóng tối khi bầu trời và mặt đất đã chạm vào nhau. Chừng nào núi còn đứng đó thì vùng Mường vẫn còn những nhịp thở tĩnh tại, và vẫn còn chỗ cho những người như tôi, mến yêu một vùng văn hóa dù có bị khuất lấp đi thì muôn đời vẫn có chỗ đứng của nó.
Bài và ảnh: Đỗ Bích Thúy
Nguồn Người Đô Thị: https://nguoidothi.net.vn/duoi-chan-nui-mu-38113.html