Gây khó khăn cho doanh nghiệp cũng là lãng phí

Trong bài viết 'Chống lãng phí' mới đây, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhận diện một số dạng thức lãng phí đang nổi lên hiện nay. Chiếu theo đó, tình trạng các quy chuẩn kỹ thuật, các quy định về công bố hợp quy không mang tính thực tiễn, làm phát sinh chi phí và thủ tục, gây khó khăn cho doanh nghiệp cũng có thể coi là một dạng lãng phí cần phải chống, phải khắc phục.

Việc quản lý thép không gỉ bằng quy chuẩn kỹ thuật theo Danh mục hàng hóa nhóm 2 là không phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007.

Việc quản lý thép không gỉ bằng quy chuẩn kỹ thuật theo Danh mục hàng hóa nhóm 2 là không phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007.

Trong báo cáo thẩm tra tình hình kinh tế - xã hội gửi đến phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước thềm kỳ họp thứ 8 của Quốc hội, khai mạc vào ngày 21-10-2024, Ủy ban Kinh tế đã nêu phản ánh của doanh nghiệp về tình trạng các quy chuẩn kỹ thuật không mang tính thực tiễn, gây khó cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động.

Ví dụ như Quy chuẩn kỹ thuật QCVN 20:2019/BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ về thép không gỉ. Vào cuối năm ngoái, sau khi tham vấn doanh nghiệp và chuyên gia, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đề nghị bãi bỏ hẳn quy chuẩn này vì ba lý do.

Thứ nhất, việc quản lý thép không gỉ bằng quy chuẩn kỹ thuật theo Danh mục hàng hóa nhóm 2 là không phù hợp với Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa 2007.

Thứ hai, QCVN 20:2019/BKHCN ảnh hưởng quyền lợi của người tiêu dùng khi hạn chế quyền lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu. Theo VCCI, để xử lý những doanh nghiệp lừa dối người tiêu dùng, cung cấp thép chất lượng kém nhưng quảng cáo là chất lượng tốt thì cơ quan nhà nước xử phạt nghiêm các doanh nghiệp vi phạm chứ không nên ban hành quy chuẩn kỹ thuật cấm một mặt hàng chỉ vì chất lượng thua kém mặt hàng khác.

Thứ ba, quy chuẩn này dường như đang tạo thuận lợi cho hàng hóa nhập khẩu thay vì bảo vệ và khuyến khích sử dụng hàng hóa cùng loại sản xuất trong nước. Bởi lẽ, QCVN 20:2019/BKHCN khiến thép không gỉ không thể được nhập khẩu để làm nguyên liệu gia công hàng hóa trong nước; song hàng hóa sử dụng loại thép này lại không cần kiểm tra theo QCVN 20:2019/BKHCN và được nhập khẩu bình thường.

Vào lúc này, ở “thời điểm để định hình tương lai của chúng ta”, các giải pháp để chống lãng phí, nhất là những dạng thức lãng phí đang nổi lên gay gắt, cần được thực thi quyết liệt và hiệu quả ở mọi cấp, mọi ngành để tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp và đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước.

Một trường hợp khác, doanh nghiệp ngành thủy sản phản ánh, theo quy định tại Nghị định 37/2024/NĐ-CP của Chính phủ, kể từ ngày 19-5-2024, cá ngừ vằn được phép khai thác phải có chiều dài tối thiểu là 500 mi li mét. Nếu dưới kích cỡ này thì các doanh nghiệp sẽ không được thu mua để chế biến xuất khẩu. Quy định này là nhằm bảo vệ nguồn lợi cá ngừ, tránh khai thác cá ngừ ở kích thước nhỏ.

Tuy nhiên, theo Hiệp hội Thủy sản Việt Nam (VASEP), sản lượng cá ngừ đạt kích cỡ này thực tế rất thấp, chỉ chiếm khoảng 10-20% mẻ lưới. Ngoài ra, đối với cá ngừ vằn, các quốc gia và các tổ chức quản lý nghề cá thường áp dụng hạn ngạch khai thác, thay vì quản lý kích thước khai thác.

Không được nhắc đến trong báo cáo của Ủy ban Kinh tế, song yêu cầu phải công bố hợp quy theo quy định tại Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật; Luật Thú y và các văn bản hướng dẫn thi hành, cũng đang làm khó các doanh nghiệp sản xuất thuốc thú y.

Một thành viên Hiệp hội Sản xuất và kinh doanh thuốc thú y Việt Nam cho biết, sản xuất, buôn bán thuốc thú y là ngành nghề có điều kiện. Doanh nghiệp sản xuất thuốc thú y phải được cấp giấy phép đủ điều kiện sản xuất theo tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt (GMP) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Việc kiểm soát chất lượng sản phẩm được tiến hành chặt chẽ với từng lô sản xuất, từ khâu nguyên liệu đầu vào cho đến sản phẩm lưu mẫu lô (lưu tại doanh nghiệp đến hết hạn sử dụng) và lưu thông trên thị trường. Các tiêu chuẩn GMP chặt chẽ và có yêu cầu cao hơn so với quy chuẩn kỹ thuật. Hiện, Việt Nam đã có gần 100 doanh nghiệp sản xuất thuốc thú y đạt tiêu chuẩn GMP của WHO.

Bên cạnh giấy chứng nhận này, trước khi lưu thông, doanh nghiệp còn phải thực hiện thủ tục đăng ký lưu hành sản phẩm với Cục Thú y và cục này sẽ cấp giấy chứng nhận lưu hành kèm theo số đăng ký riêng cho từng sản phẩm. Sản phẩm được cấp giấy chứng nhận lưu hành có nghĩa là đã phù hợp theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia.

“Các sản phẩm thuốc thú y được quản lý rất nghiêm ngặt như vậy nên việc công bố hợp quy là không cần thiết”, một doanh nghiệp thành viên Hiệp hội Sản xuất và Kinh doanh thuốc thú y Việt Nam nói và phân tích hai tình huống.

Nếu tuân thủ sẽ làm tăng chi phí của doanh nghiệp và phát sinh thủ tục với mỗi sản phẩm. Để thực hiện thủ tục công bố hợp quy, trong một năm, doanh nghiệp phải chi 20-30 triệu đồng cho một loại vaccine, từ 1-3 triệu đồng cho một loại thuốc, và in ấn bao bì cho từng sản phẩm để có dấu hợp quy.

Tính chung, chi phí của việc công bố hợp quy khiến giá thành tăng 5-10%, các doanh nghiệp sẽ tính vào giá thành sản phẩm. Như vậy sẽ làm tăng chi phí cho người chăn nuôi và giảm sức cạnh tranh của sản phẩm chăn nuôi nước ta.

Nếu không công bố hợp quy, doanh nghiệp phải đối diện với mức phạt hành chính lên tới 30-40 triệu đồng cho một sản phẩm vi phạm tại mỗi tỉnh, thành. Mỗi doanh nghiệp có tới hàng trăm sản phẩm với hàng ngàn quy cách lớn nhỏ, nhân lên sẽ là áp lực tài chính cực lớn, lên đến hàng trăm tỉ đồng.

Trong bài viết “Chống lãng phí” mới đây, Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã nhận diện một số dạng thức của lãng phí “đang nổi lên gay gắt hiện nay”. Trong đó có “chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn công cuộc đổi mới dẫn đến khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực. Lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, cá nhân khi thủ tục hành chính rườm rà…”. Chiếu theo đó, tình trạng các quy chuẩn kỹ thuật, các quy định về công bố hợp quy không mang tính thực tiễn, gây khó khăn cho doanh nghiệp cũng có thể coi là một dạng lãng phí.

Dạng lãng phí này làm “giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí”, “tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước”, cần phải chống, phải khắc phục bằng các giải pháp Tổng bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã chỉ ra trong bài viết.

Đó là, “xây dựng pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn…; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, khơi thông nguồn lực, giải quyết, khắc phục điểm nghẽn, mở rộng không gian, tạo đà cho phát triển”.

Đó là, “thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực. Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước”. Đó là, “cải cách triệt để, giảm tối đa thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ của người dân, doanh nghiệp; chống bệnh quan liêu”.

Vào lúc này, ở “thời điểm để định hình tương lai của chúng ta”, các giải pháp để chống lãng phí, nhất là những dạng thức lãng phí đang nổi lên gay gắt, cần được thực thi quyết liệt và hiệu quả ở mọi cấp, mọi ngành để tạo không gian phát triển cho doanh nghiệp và đóng góp nhiều hơn nữa cho đất nước.

An Nhiên

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/gay-kho-khan-cho-doanh-nghiep-cung-la-lang-phi/