Gia tăng chuỗi giá trị cho ngành nông nghiệp
Nông nghiệp Việt Nam là lĩnh vực chịu nhiều tác động nhất từ Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu (EVFTA). Đồng chí Nguyễn Xuân Cường, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho rằng, hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới hứa hẹn sẽ là thị trường tiềm năng tiêu thụ sản phẩm nông sản. Nó sẽ tạo ra áp lực cần thiết để Việt Nam có thể gia tăng chuỗi giá trị cho ngành nông nghiệp. Phóng viên Báo Biên phòng đã có cuộc phỏng vấn đồng chí Nguyễn Xuân Cường để tìm hiểu cụ thể hơn về vấn đề này.
Cần sự vào cuộc của cả ba khu vực
- Thưa Bộ trưởng, ông nhận định như thế nào về cơ hội cũng như thách thức đối với ngành nông nghiệp khi Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP và EVFTA?
- Chúng tôi đánh giá, đây vừa là cơ hội, vừa là thách thức, thậm chí, thách thức nhiều hơn cả cơ hội. Chúng ta biết là hai hiệp định thương mại tự do CPTTP và EVFTA với quy mô dân số xấp xỉ 1 tỉ dân, GDP khoảng trên 30% toàn cầu và thương mại thế giới chiếm khoảng 35%.
Các nước ký kết hai hiệp định này đều là quốc gia có thu nhập bình quân đầu người cao, trình độ kinh tế, trình độ quản lý hàng hóa cao. Chính vì thế, khi chúng ta mở cửa, chấp nhận một cuộc chơi mà chúng ta có những điều kiện chưa bằng bạn, đó là thách thức lớn. Ở khu vực này có nhiều nước tiềm năng phát triển nông nghiệp rất tốt so với các nước khác như Canada, Australia, New Zealand. Họ vừa có thế mạnh về khoa học công nghệ, vừa có thế mạnh về tài nguyên tự nhiên mà chúng ta phải chấp nhận sự cạnh tranh một cách bình đẳng đó. Vì thế, chúng tôi đánh giá, đây là những thách thức rất lớn kể cả về cạnh tranh nông sản, đầu tư, khoa học công nghệ và quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, nhìn ở những khía cạnh khác, chúng ta cũng có những lợi thế, cơ hội nhất định. Đó là khả năng thích ứng của nền kinh tế Việt Nam nói chung, trong đó có khu vực nông nghiệp. 20 năm qua, với việc ký các hiệp định thương mại tự do, cho thấy, càng khó khăn, chúng ta càng phải quyết tâm thích ứng và đã thích ứng được. Thực tế, đến năm 2019, chúng ta đã xuất khẩu nông sản lên tới 40 tỉ USD đi 192 thị trường. Điều đó chứng tỏ có những ngành hàng, múi hàng mà ta chiến thắng được trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, qua một quá trình hội nhập kinh tế, cải cách kinh tế, cho đến giờ phút này, những điều kiện kinh tế bổ trợ của các khu vực khác cho khu vực nông nghiệp đã tốt hơn. Chúng ta hiện có hơn 1 vạn doanh nghiệp, trong đó có nhiều con chim đầu đàn đã trưởng thành về mặt quản trị, có nhiều khát vọng để trở thành hạt nhân trong các ngành hàng liên kết cùng với nông dân.
Ngoài ra, còn có sự chỉ đạo vào cuộc quyết liệt của hệ thống chính trị. Chúng tôi tin đây chính là những tín hiệu, yếu tố tích cực để chúng ta khai thác tốt nhất tiềm năng, lợi thế. Hai hiệp định CPTPP và EVFTA cũng tạo ra những thị trường đang bỏ ngỏ để hàng nông sản Việt Nam tiếp tục tham gia chuỗi giá trị toàn cầu sâu hơn trên cơ sở đồng hành ba khu vực: Chính phủ, doanh nghiệp, người nông dân. Cả ba khu vực này đều phải cố gắng cao nhất mới tạo ra được một hệ sinh thái hoàn chỉnh, hay nói đúng hơn là một hệ liên kết từ khâu tổ chức sản xuất đến chế biến, tổ chức thương mại, cùng tạo thành một chuỗi khép kín chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành hàng, giữa các khu vực. Tôi tin tưởng rằng, chúng ta sẽ chiến thắng trong khu vực này.
- Trong các hiệp định thương mại tự do có rất nhiều rào cản phi thuế quan rất khắt khe. Về phía Việt Nam, chúng ta tính toán như thế nào để phù hợp với thông lệ quốc tế và đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng trong nước?
- Tôi khẳng định, không có Chính phủ nào không quan tâm đến hàng rào kỹ thuật để đảm bảo quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng trong nước cả. Đương nhiên, chúng ta phải quan tâm tới điều đó với một tinh thần minh bạch, bình đẳng và cố gắng đồng bộ nhất. Từ giờ trở đi, chúng ta phải coi 100 triệu dân của thị trường trong nước cũng như là thị trường xuất khẩu, hàng hóa sản xuất ra phải đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn. Đó là chủ trương nhất quán của Đảng, Chính phủ và làm được điều đó có nghĩa là ta đi bán hàng chỗ nào cũng được.
Không có ngành hàng có lợi thế tuyệt đối
- Thưa Bộ trưởng, khi tham gia hai hiệp định thì những mặt hàng nào có lợi thế nhất, còn những ngành hàng nào cần phải cạnh tranh gay gắt?
- Phải xác định khi tham gia các hiệp định thương mại tự do, mặt hàng nào cũng có lợi thế và đi kèm đó là những yếu thế nhất định. Ví dụ như mặt hàng gỗ, nếu không quản lý tốt, không trồng rừng có chứng chỉ, không chuỗi giá trị gia tăng thì cũng không thể gọi là lợi thế. Ngành hàng nào chú ý làm tốt, áp dụng khoa học công nghệ một cách phù hợp nhất thì đó là lợi thế. Còn nếu như có lợi thế mà chủ quan, lơ là, không làm đến nơi, đến chốn, tất cả không đồng bộ các khâu thì sẽ mất lợi thế.
- Theo Bộ trưởng, 3 điểm đáng lo nhất của ngành nông nghiệp khi thực thi hai hiệp định thương mại tự do thế hệ mới là gì?
- Nói chung, ngành nông nghiệp có rất nhiều nỗi lo, nhưng lo nhất là sản xuất manh mún. Hiện, nước ta có 8,6 triệu nông hộ, 10 triệu ha đất canh tác mà phải cạnh tranh với những đất nước có tài nguyên đất mênh mông. Đó là điểm lo nhất, nhưng buộc chúng ta vẫn phải tham gia hội nhập và khắc phục bằng cách vận động người dân vào hợp tác xã, liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp. Thứ hai là biến đổi khí hậu tác động tới chúng ta ngày càng khắc nghiệt. 3 năm gần đây, biến đổi khí hậu tác động năm sau nặng hơn năm trước. Thứ 3 là thời gian nước ta hội nhập, đổi mới ngắn phải cạnh tranh với những nước có chiều sâu phát triển đã hoàn thiện thể chế rồi, khoa học công nghệ phát triển và tiềm lực kinh tế lớn. Từ những thách thức lớn này, phải xác định một niềm tin, vừa qua, nước ta hội nhập đã chiến thắng, bây giờ cũng phải chiến thắng nhưng phải đổ mồ hôi nhiều hơn, đồng hành với nhau nhiều hơn, cả khu vực Chính phủ cùng Nhà nước, cả khu vực doanh nghiệp và người dân.
- Trong năm nay, mục tiêu xuất khẩu 43 tỉ USD liệu có cán đích không, thưa Bộ trưởng?
- Chúng ta hướng tới đích phát triển bền vững của nông nghiệp là chính, kiên quyết không phát triển theo số lượng mà đặt mục tiêu phát triển theo chất lượng, đó là chuỗi giá trị gia tăng, đó là bảo vệ môi trường, đảm bảo thu nhập của người nông dân cao nhất. Đây mới là mục tiêu quan trọng nhất, còn giá trị xuất khẩu 43 hay 44 tỉ USD chỉ là một chỉ số nhỏ trong bộ chỉ số lớn của chúng ta.
- Trân trọng cảm ơn Bộ trưởng!
Bích Nguyên (Thực hiện)
Nguồn Biên Phòng: http://bienphong.com.vn/gia-tang-chuoi-gia-tri-cho-nganh-nong-nghiep/