Hóa ra người Việt cũng có 'luật dùng đũa' trên bàn ăn khắt khe thế này
Đôi đũa không chỉ là vật dụng sinh hoạt hàng ngày mà còn ẩn chứa nhiều nét đẹp văn hóa của người Việt.
Không giống như các quốc gia phương Tây thường sử dụng dao và nĩa trong bữa ăn, đũa là dụng cụ thân thuộc gắn liền với đời sống ẩm thực ở nhiều quốc gia châu Á.
Đũa ra đời từ khoảng năm 1.800 trước Công nguyên. Thoạt tiên, những đôi đũa có kích thước lớn thường được dùng để nấu ăn là chính. Đến khoảng năm 200 trước Công nguyên, đũa bắt đầu trở thành món đồ dùng phổ biến trong các bữa ăn của người phương Đông.
Đôi đũa truyền thống của người Việt
Đũa truyền thống của người Việt Nam chủ yếu làm từ gỗ, thân tròn để mộc, không sơn quét trang trí, đầu đũa cũng thường không quá nhỏ nhưng có phần dài hơn đũa Nhật, Hàn một chút.
Và chỉ riêng ở Việt Nam, đũa cũng có một vài khác biệt nhất định giữa từng vùng miền bởi những đặc tính văn hóa. Làng quê miền Bắc gắn liền với hình ảnh của những lũy tre đầu làng nên người dân thường lấy thân tre già để làm đũa. Thường thì đũa ở miền Bắc có phần ngắn hơn một chút so với miền Nam. Ở miền Nam, nơi có nhiều sông ngòi và những hàng dừa nghiêng mình soi bóng, đũa cũng vì thế mà được làm nhiều từ dừa.
Hơn cả một vật dụng thường ngày, đũa chứa đựng nhiều ý nghĩa văn hóa
Đôi đũa không chỉ là vật dụng thường trực trong mỗi bữa ăn hằng ngày mà còn chứa đựng đằng sau những giá trị sâu sắc về tâm tư, tình cảm cũng như văn hóa của người Việt.
Ngày trước, ông bà ta vẫn thường dùng câu "Học ăn, học nói, học gói, học mở" để răn dạy con cháu những điều cơ bản trong cuộc sống. Theo đó, việc ăn uống không chỉ dừng lại ở khía cạnh bản năng mà còn chứa đựng những quy tắc con người ta cần phải học hỏi.
Khởi đầu bữa ăn, cần phải so đũa và chú ý đến đầu đũa có được đặt đúng hướng hay không. Bên cạnh đó, trong những bữa cỗ truyền thống, để thể hiện sự quan tâm, chia sẻ một cách tinh tế, người ta dùng đôi đũa còn sạch để gắp đồ ăn mời "một vòng" quanh mâm. Trong suốt bữa ăn, khi muốn gắp thức ăn cho người khác, thường theo phép lịch sự, người ta phải đảo đầu đũa để gắp bằng đầu còn lại.
Sau bữa ăn phải đặt đũa xuống một cách ngay ngắn, không nên để đũa bị so le hay bị xô lệch. Nếu không thể cầm đũa đúng cách, cũng phải chú ý đến ngón tay của mình, không nên duỗi thẳng ngón tay trỏ ra khi cầm đũa vì như vậy trông như đang chỉ thẳng vào người đối diện.
Bên cạnh đó, trẻ con cũng được dạy không nên ngậm và mút đũa vì điều này thể hiện sự bất lịch sự trên bàn ăn. Khi gắp thức ăn, không được xới tung cả đĩa thức ăn để tìm thứ mình thích. Khi trò chuyện trong bữa ăn, không được vừa nhai nhồm nhoàm vừa nói, vừa cầm đũa vừa hoa tay múa chân kể chuyện.
Khi chấm thức ăn cũng nên chú ý không để đũa chạm vào nước chấm và không để nước chấm vương bẩn ra bàn, cũng không nên dùng đũa của mình để khuấy nước chấm hay khuấy vào bát canh. Những việc này tuy nhỏ nhưng thể hiện được sự tinh tế và văn hóa ẩm thực của người Việt.
Ngoài ra, theo như khía cạnh văn hóa dân gian, người Việt Nam tin rằng việc gõ đũa bát trong bữa ăn sẽ khiến ma đói tìm tới quấy nhiễu.
Đối với một quốc gia có lịch sử lâu đời và sở hữu nền ẩm thực đa dạng như nước ta, đũa không còn dừng lại ở khía cạnh là dụng cụ phục vụ việc ăn uống mà hơn hết nó ẩn chứa những câu chuyện văn hóa nhiều đời truyền giữ.