Máy bay vận tải đặc biệt IL-76 của không quân Nga

Để chuẩn bị cho chuyển thăm của Tổng thống Nga đến Việt Nam, những chiếc máy bay vận tải IL-76, một trong những máy bay vận tải hiện đại nhất thế giới đã cập Cảng hàng không Quốc tế Nội Bài.

Trước mỗi chuyến thăm cấp cao của Tổng thống Nga đến các nước, các máy bay vận tải IL-76 được giao nhiệm vụ tiền trạm, chở các phương tiện đặc chủng như xe bọc thép, xe chỉ huy, xe tác chiến điện tử, cũng như nhân sự của lực lượng bảo đảm.

Máy bay vận tải quân sự IL-76 được ra đời từ những năm 1970. Dự án được thực hiện dưới sự lãnh đạo của Phó Tổng công trình sư Hendrikh Novozilov.

IL-76 là chiếc máy bay vận tải quân sự đầu tiên trong lịch sử Liên Xô có sử dụng động cơ phản lực cánh quạt và có khả năng chuyên chở được những lô hàng có trọng lượng 28-60 tấn, với tầm bay 3.600-4.200km, tốc độ trung bình khoảng 770-800km/h. Đã có hơn 950 chiếc với các loại phiên bản quân sự, dân sự và chuyên dụng khác nhau được sản xuất.

Máy bay vận tải quân sự IL-76 được ra đời từ những năm 1970.

Máy bay vận tải quân sự IL-76 được ra đời từ những năm 1970.

Nguyên mẫu IL-76 thử nghiệm thứ nhất xuất hiện vào đầu năm 1971. Sau hai năm, nguyên mẫu thứ ba được sản xuất hàng loạt sau khi có chuyến cất cánh vào ngày 5/5/1973 tại Uzbekistan, từ sân bay của Tổ hợp chế tạo hàng không mang tên Chkalov, nơi mà dây chuyền sản xuất đã được triển khai.

Phiên bản IL-76 đầu tiên có trọng lượng cất cánh tương đương 170 tấn, tải trọng 28 tấn và tầm bay với tải trọng tối đa là 4.200km. Tuy nhiên, từng bước trong quá trình cải tiến, trọng lượng cất cánh của IL-76 tăng lên tới 190 tấn cùng tải trọng tối đa 60 tấn.

Trong khoang chở hàng của chiếc máy bay có thể bố trí 145 hoặc 225 chiến sĩ (phiên bản M, MD hai tầng) hoặc 126 lính dù (trong phiên bản đầu tiên chỉ là 115 lính dù). IL-76 có thể chở ba xe chiến đấu bộ binh BMD-1.

IL-76 là chiếc máy bay vận tải quân sự đầu tiên trong lịch sử Liên Xô có sử dụng động cơ phản lực cánh quạt.

IL-76 là chiếc máy bay vận tải quân sự đầu tiên trong lịch sử Liên Xô có sử dụng động cơ phản lực cánh quạt.

So với các máy bay có động cơ phản lực cánh quạt, phạm vi tốc độ của IL-76 đã được mở rộng từ 260 cho đến 825km/h, cho phép chiếc máy bay này rút ngắn được thời gian triển khai các nhiệm vụ chiến đấu, tăng cơ hội vượt qua hệ thống phòng không của đối phương cũng như cải thiện các điều kiện đổ bộ người và khí tài chiến đấu.

IL-76, so với các bậc đàn anh của mình, đã được hoàn thiện tất cả những tính năng chủ yếu: hệ thống thông tin liên lạc, thiết bị định vị, điều khiển, vận tải-đổ bộ và vũ khí.

Chiều dài khoang vận chuyển của IL-76 20m đã được xác định trên cơ sở các điều kiện bố trí với 6 container tiêu chuẩn bên trong và các loại khí tài. Phần đầu của khoang có bố trí ròng rọc, khu vực hoạt động của các thiết bị đổ bộ từ trên không và lối đi bên hông với chiều rộng vừa đủ.

Tổng chiều dài phủ bì của khoang vận chuyển là 24,5m. Không gian bên dưới sàn khoang vận chuyển được sử dụng để làm các khoang vận tải phụ trợ cho nhiều dụng cụ khác nhau. Phần đuôi của máy bay được thiết kế theo góc nghiêng của cửa khoang vận chuyển để có thể hạ dù các lô hàng cồng kềnh hạng nặng cũng như khí tài quân sự.

IL-76 được ứng dụng một loạt các công nghệ mới giúp nó chiếm được ưu thế trước những máy bay cùng chủng loại.

IL-76 được ứng dụng một loạt các công nghệ mới giúp nó chiếm được ưu thế trước những máy bay cùng chủng loại.

IL-76 còn ứng dụng một loạt các công nghệ mới giúp nó chiếm được ưu thế trước những máy bay cùng chủng loại. Phần mũi máy bay, nơi đặt buồng lái được chia thành tầng trên dành cho hai phi công, kỹ sư và điện đàm viên, tầng dưới dành cho hoa tiêu với các thiết bị định vị bay.

Phía sau buồng lái là khoang kỹ thuật với những thiết bị vận tải - đổ bộ và chỗ nghỉ ngơi của phi hành đoàn.

Ưu thế lớn của IL-76 là buồng lái và khoang chứa hàng được bịt rất kín. Nhờ đó mà khi bay ở độ cao 6.700m máy bay vẫn giữ được áp suất không khí bình thường. Còn ở độ cao 11.000m, áp suất trong các khoang tương đương với áp suất ở độ cao 2.400m. Hệ thống đa bánh giúp cho IL-76 có thể cất hạ cánh đa dạng ở loại sân bay bằng đất nện hơn là máy bay An-12.

Ban đầu, IL-76 được trang bị bốn động cơ D-30KP giúp nó có thể đạt được lực đẩy lớn. Điều quan trọng cho quá trình bảo dưỡng kỹ thuật là động cơ dưới cánh được bố trí để chúng có thể dễ thay thế. Liên quan tới hệ thống nhiên liệu, ban đầu trên IL-76, hệ thống này đã vô cùng đơn giản và có độ ổn định cao.

Đến giữa thập niên 80, IL-76 trở thành chiếc máy bay chủ lực của lực lượng không quân vận tải Liên Xô.

Đến giữa thập niên 80, IL-76 trở thành chiếc máy bay chủ lực của lực lượng không quân vận tải Liên Xô.

Một thiết bị đặc biệt cũng được chế tạo để thực hiện nhiệm vụ đổ bộ. Nó giúp giảm đáng kể thời gian chuyển từ chờ sang trạng thái hoạt động, gồm các hàng ghế ngồi bố trí ở hai bên và giữa các dây cáp mở dù bắt buộc, các giải phân chia và ngắt dòng người nhảy dù cùng miếng bảo vệ bên hông che chắn các lính dù trong quá trình đổ bộ. Thiết bị này giúp loại bỏ được những rủi ro không đáng có trong quá trình nhảy dù và lính dù có thể rời máy bay một cách an toàn.

Trong quá trình thực hiện những chuyến vận tải này, các chuyên gia của Phòng thiết kế Ilyushin đã phát kiến ra một phương pháp thả hàng trên hệ thống dù-vận chuyển có sử dụng trọng lực (thả hàng trong cơ chế lựa chọn độ cao) mà hiện nay thường xuyên được ứng dụng khi triển khai các nhiệm vụ vận chuyển hàng hóa trong những điều kiện khắc nghiệt.

Đến giữa thập niên 80, IL-76 trở thành chiếc máy bay chủ lực của lực lượng không quân vận tải Liên Xô (chiếm gần 50% toàn bộ các loại máy bay).

Nguồn Hà Nội TV: https://hanoionline.vn/video/may-bay-van-tai-dac-biet-il-76-cua-khong-quan-nga-244259.htm