Quân đội Nhân dân Việt Nam với ngày lễ 2/9 linh thiêng của dân tộc

Lực lượng vũ trang của cách mạng thời kỳ mới lập quốc có tên là Việt Nam Giải Phóng quân – cái tên này gắn liền với lực lượng quân sự chủ lực của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tới tận năm 1950.

 Quân đội Nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Quân đội Nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam, là đội quân từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phục vụ, sẵn sàng chiến đấu hy sinh “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, đội quân chủ lực đầu tiên được thành lập ngày 22 tháng 12 năm 1944 theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc

Khi mới thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân chỉ có 34 cán bộ, chiến sĩ nhưng đã sớm phát huy được truyền thống chống ngoại xâm và nghệ thuật quân sự lấy ít địch nhiều, lấy nhỏ thắng lớn của dân tộc

Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này.

Ngay từ lần đầu ra quân, đội quân chính quy đầu tiên của Việt Nam đã lập nên những chiến công vang dội, giải phóng những khu vực rộng lớn làm căn cứ cho các hoạt động đấu tranh giành độc lập, mở đầu truyền thống quyết chiến quyết thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam sau này.

Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Cách mạng khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Ngày 15 tháng 5 năm 1945, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân sáp nhập với lực lượng Cứu quốc quân và đổi tên thành Giải phóng quân, trở thành lực lượng quân sự chủ yếu của Cách mạng khi tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.

Trong ngày thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam – ngày 2/9/1945, Việt Nam Giải phóng quân đã có mặt trên Quảng trường Ba Đình lịch sử cùng hàng vạn đồng báo chứng kiến những giờ phút lịch sử lãnh tụ Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ giờ phút đó, Việt Nam Giải phóng quân trở thành lực lượng vũ trang chính thức của đất nước non trẻ.

Trong ngày thiêng liêng nhất của dân tộc Việt Nam – ngày 2/9/1945, Việt Nam Giải phóng quân đã có mặt trên Quảng trường Ba Đình lịch sử cùng hàng vạn đồng báo chứng kiến những giờ phút lịch sử lãnh tụ Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Kể từ giờ phút đó, Việt Nam Giải phóng quân trở thành lực lượng vũ trang chính thức của đất nước non trẻ.

Theo báo QĐND, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã lâm vào tình thế hiểm nghèo, thù trong, giặc ngoài. Ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào giải giáp quân Nhật. Ở phía Nam, thực dân Anh mở đường cho thực dân Pháp tiến vào với âm mưu biến Việt Nam trở về thời kỳ thuộc địa. Trước sức ép của quân Tưởng Giới Thạch, ta linh động đưa Đảng ta vào hoạt động bí mật, Đảng tuyên bố “tự giải tán”. Để đáp ứng yêu sách của quân Tưởng đòi giải tán quân đội chính quy, tháng 11/1945, Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn (còn gọi là Vệ quốc quân). Lúc này quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ.

Theo báo QĐND, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vừa mới ra đời đã lâm vào tình thế hiểm nghèo, thù trong, giặc ngoài. Ở phía Bắc, quân đội Tưởng Giới Thạch tiến vào giải giáp quân Nhật. Ở phía Nam, thực dân Anh mở đường cho thực dân Pháp tiến vào với âm mưu biến Việt Nam trở về thời kỳ thuộc địa. Trước sức ép của quân Tưởng Giới Thạch, ta linh động đưa Đảng ta vào hoạt động bí mật, Đảng tuyên bố “tự giải tán”. Để đáp ứng yêu sách của quân Tưởng đòi giải tán quân đội chính quy, tháng 11/1945, Việt Nam Giải phóng quân đổi tên thành Vệ quốc đoàn (còn gọi là Vệ quốc quân). Lúc này quân số khoảng 50.000 người, tổ chức thành khoảng 40 chi đội ở hầu hết các tỉnh Bắc Bộ và Trung Bộ.

Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 71-SL về việc quân đội của nước Việt Nam là một quân đội quốc gia. Sắc lệnh đã đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quân đội có một hệ thống biên chế thống nhất theo từng trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội.

Ngày 22/5/1946, Chính phủ ra Sắc lệnh số 71-SL về việc quân đội của nước Việt Nam là một quân đội quốc gia. Sắc lệnh đã đổi tên Vệ quốc đoàn thành Quân đội quốc gia của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong quân đội có một hệ thống biên chế thống nhất theo từng trung đoàn, tiểu đoàn, đại đội.

Cùng với việc xây dựng quân đội quốc gia, chính phủ đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng bán vũ trang, bao gồm: dân quân ở nông thôn và tự vệ ở đô thị. Lực lượng này tồn tại trên toàn quốc, nhiều đội du kích nổi tiếng và còn dư âm đến tận bây giờ, tiêu biểu như du kích Nha Trang, du kích Ba Tơ, Bến Tre... Đến cuối năm 1946, có khoảng 1 triệu dân quân tự vệ đã được tổ chức và huấn luyện quân sự.

Cùng với việc xây dựng quân đội quốc gia, chính phủ đặc biệt coi trọng việc xây dựng lực lượng vũ trang quần chúng, lực lượng bán vũ trang, bao gồm: dân quân ở nông thôn và tự vệ ở đô thị. Lực lượng này tồn tại trên toàn quốc, nhiều đội du kích nổi tiếng và còn dư âm đến tận bây giờ, tiêu biểu như du kích Nha Trang, du kích Ba Tơ, Bến Tre... Đến cuối năm 1946, có khoảng 1 triệu dân quân tự vệ đã được tổ chức và huấn luyện quân sự.

Từ năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tên gọi "Quân đội nhân dân" là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ".

Từ năm 1950, Quân đội Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tên gọi "Quân đội nhân dân" là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa "từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ".

Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Cũng thời gian này, các đại đoàn (đơn vị tương đương sư đoàn) chủ lực quan trọng như các đại đoàn 308, 304, 312, 320, 316, 325, 351 lần lượt được thành lập, đến nay vẫn là những đơn vị chủ lực của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 7/5/1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.

Từ một đội quân chỉ vài trăm người khi tham gia Tổng khởi nghĩa, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã phát triển thành quân đội với các sư đoàn chủ lực mạnh, lập nên những chiến công lẫy lừng mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử ngày 7/5/1954, đập tan mưu toan thiết lập lại chế độ thuộc địa của thực dân Pháp.

Mùa xuân năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng các lực lượng vũ trang khác mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy mà đánh dấu là chiến thắng ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Mùa xuân năm 1975, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng các lực lượng vũ trang khác mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy mà đánh dấu là chiến thắng ngày 30/4/1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

Đi suốt chiều dài lịch sử, là những khó khăn vất vả mà quân đội ta đã phải đối mặt. Nhưng bất chấp tất cả, đội quân từ nhân dân mà ra vẫn kiên cường đánh thắng mọi kẻ thù, giữ vững non sông và bình yên cho dân tộc.

Đi suốt chiều dài lịch sử, là những khó khăn vất vả mà quân đội ta đã phải đối mặt. Nhưng bất chấp tất cả, đội quân từ nhân dân mà ra vẫn kiên cường đánh thắng mọi kẻ thù, giữ vững non sông và bình yên cho dân tộc.

Trước xu thế chung của thế giới, quân đội Nhân dân Việt Nam cũng được đầu tư bài bản, từng bước tiến thẳng lên hiện đại, để đủ sức đối phó với mọi kẻ thù trong tương lai, đảm bảo chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Việt nam. Nguồn ảnh: TTXVN.

Trước xu thế chung của thế giới, quân đội Nhân dân Việt Nam cũng được đầu tư bài bản, từng bước tiến thẳng lên hiện đại, để đủ sức đối phó với mọi kẻ thù trong tương lai, đảm bảo chủ quyền dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của Việt nam. Nguồn ảnh: TTXVN.

Ba trận đánh rèn bản lĩnh của QĐNDVN trong kháng chiến chống Pháp

Trần Trân

Nguồn Tri Thức & Cuộc Sống: https://kienthuc.net.vn/quan-su/quan-doi-nhan-dan-viet-nam-voi-ngay-le-29-linh-thieng-cua-dan-toc-1585982.html